Ghi chép tọa đàm giữa văn nghệ sĩ trí thức Huế với điện ảnh

09:54 21/12/2009
NGUYỄN KHẮC THẠCHTrong buổi tọa đàm giữa các nghệ sĩ Điện ảnh Việt Nam với văn nghệ sĩ trí thức Huế vừa rồi, nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã chuẩn bị sẵn một tham luận có tiêu đề rất "gây sự" là Khoảng cách giữa điện ảnh Việt Nam với khán giả nhưng điều đó lại được "giải tỏa" ngay khi anh nhấn mạnh - trừ cuộc liên hoan lần này.

Nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch

Như vậy là từ khoảng cách giữa điện ảnh Việt Nam với khán giả, nhà văn Nguyễn Khắc Phê lại mở thêm một khoảng cách nữa giữa phim với phim ở hai thì đã đang. Không biết nhà văn đã thực lòng hay chưa hay chỉ là cách ứng xử tình thế trong huống cảnh vuốt mặt phải nể mũi? Bởi lẽ bấy nay ở xứ ta, khi cần nhận định về một vấn đề "tế nhị" nào đó, ở mỗi người đều có "chính kiến nước đôi" trước mặt khác, sau lưng khác, diễn đàn khác, vỉa hè khác...

Từ chỗ chỉ cần nói một lại phải nói thành hai. Rồi từ chỗ một sang hai cũng phải lòng vòng chuyển đoạn nên nó ra ba, ra bốn. Vậy mới thành ra sự lắm lời. Khi sự lắm lời của cuộc sống được "hiện thực hóa" vào nghệ thuật thì nó trở nên hàm hồ và có lẽ đây chính là nguyên nhân làm cho nền lí luận phải thất nghiệp hoặc không còn gì để nói. Nghệ thuật thứ bảy ra đời sau, nó có thể "truy cập" những yếu tố "đồng đẳng" của các nghệ thuật khác để làm nổi trội đặc trưng riêng của mình là ngôn ngữ điện ảnh. Vậy nhưng giờ đây, đặc trưng đó dường như bị "tráo lộn văn chương với chả cả" và thế là "bản sắc dân tộc" của điện ảnh không còn đậm đà nữa. Nghĩa là hiệu ứng thẩm mĩ riêng của nó trở nên nhòe nhoẹt, mù mờ trước khán giả. Bởi vậy khán giả chẳng dại gì vào rạp xem phim cho mất công, tốn tiền. Cứ ở nhà xem phim ti vi (FTV) thì cũng đủ dư vị, màu mè của sản phẩm này. Mặt khác, cũng do vậy, phim đã đẩy khán giả vào tâm thế tò mò là xem nó nói cái gì chứ không phải xem nó nói như thế nào. Nói cái gì là chính trị, nói như thế nào mới là nghệ thuật. Khi đã không còn hình ảnh nghệ thuật trước mắt nữa thì người xem phim cũng không nhất thiết phải song hóng cả hai chức năng nghe - nhìn mà chỉ cần nghe là đủ rồi. Hậu quả của nó lại thật êm dịu là người ta có thể vừa nằm lim dim vừa nghe phim ti vi. Không biết ai đó đã châm biếm một cách khôi hài, chua chát rằng ngành điện ảnh nước ta đã "có công" đảo ngược mô thức người xem phim thành phim xem người.

Khi người ta đã quá mệt mỏi, quá căng thẳng về tiếng ồn, về sự dạy dỗ nhau mà phim ảnh lại tiếp tục "tra tấn" thêm một lần nữa thì làm sao họ chịu nổi. Họ thích phim nước ngoài vì trước hết nó ít lời. Có phim ít lời gần đây như Titanic hoặc thậm chí có phim không cần thuyết minh từ thập kỉ trước như Chiếc sừng dê nhưng chúng lại nói được rất nhiều bởi ở đó ngôn ngữ điện ảnh được hiện lên  một cách tròn đầy, trinh bạch. Sự so le đẳng cấp giữa phim ta với thế giới điện ảnh tuy do nhiều yếu tố nhưng chung qui lại cũng chỉ có hai vấn đề đầu tư kịch bản.

1. Dù ở lĩnh vực nào thì quyền lực đồng tiền cũng tỏ ra kẻ cả, tỏ ra đỏng đảnh và nó can thiệp bằng được vào mọi quan hệ nhân quả, không loại trừ hoạt động văn học nghệ thuật. Hệ lụy nhãn tiền của nó trong điện ảnh là "qui trình" sản xuất phim của người nước ngoài ngược lại với qui trình ở nước ta. Ho dùng tiền làm nghệ thuật, ta dùng nghệ thuật làm tiền. Khi các nghệ sĩ phải "chạy sô" để kiếm tiền thì coi như họ đã bán đứng linh hồn cho quỷ rồi. Cái còn lại cho nghệ thuật chẳng qua chỉ là cái bã. Ngược về nguồn cội người ta thấy nghệ thuật được ra đời nhờ những năng lượng sống dư thừa. Con chim chỉ hót khi nó không phải kiếm mồi. Con công chỉ múa khi nó không bị săn đuổi.Và hành vi nghệ thuật đầu tiên của con người cũng vậy. Nếu chưa được đầu tư theo nhu cầu "ăn chơi" thì ngành nghệ thuật thứ bảy của chúng ta cũng chỉ có thể luẩn quẩn bước qua chiều chủ nhật với FTV.

2. Khi "Trong tay sẵn có đồng tiền" thì mua kịch bản làm phim khó gì. Viết kịch bản đương nhiên là việc của các nhà văn. Mặc dầu tiền thù lao cho một kịch bản phim chưa phải là cao nhưng so với mặt bằng nhuận bút báo chí, xuất bản hiện hành thì nó đã khá hấp dẫn với không ít nhà văn. Trên thực tế, có một số nhà văn thối chí văn chương mà chạy qua viết kịch bản phim. Ở đó họ dễ dàng gặt hái được cả danh lẫn lợi. Giọng điệu kịch bản của họ cũng tầm tầm giọng cải lương hoặc chuyện trong nhà ngoài phố. Nghĩ cũng ngộ. Văn chương là đơn độc. Nhỡ viết sai ngữ pháp là nó trơ trơ ra như bia miệng. Đằng này phim ảnh còn có biên kịch, có đạo diễn, có diễn viên... mỗi người che một phía. Dù những nhà làm phim có tài bao biện đến đâu nhưng khi nghe giới thiệu tên tuổi các tác giả kịch bản ấy thì những người xem yếu bóng vía cũng hãi và đành phải kính nhi viễn chi.

Từ thực trạng đó, có lẽ cũng nên nghĩ đến chuyện táo bạo hơn là phải tạo ra một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng về kịch bản phim. Đội ngũ nhà văn nước nhà đông đảo, nhiều người có tài, tiềm năng kịch bản đang ẩn náu trong họ. Đương nhiên, không phải nhà văn nào cũng sẵn sàng "ngoại tình" nhưng nếu họ có tác phẩm hay thì những tác phẩm hay ấy đều có thể mua và làm phim hay được.

Xem ra, khoảng cách giữa điện ảnh Việt Nam với khán giả là có thật. Song, dường như khoảng cách đó đã được "thông cảm" và khuất lấp trong cuộc liên hoan phim vừa rồi. Thành công của nó đã được các Ban giám khảo, Ban tổ chức phim và báo chí minh định. Dù vậy, thiết nghĩ cũng cần ghi nhận thêm một "chỉ số phụ" rằng, giải thưởng của liên hoan phim điện ảnh lần này có uy tín hơn, "thiêng hơn" giải liên hoan phim truyền hình lần trước (cũng diễn ra tại Huế cách đây gần 6 tháng). Giải phim truyền hình "vô tư" và nhiều đến nỗi người ta không tài nào nhớ nổi, nhớ hết những phim được giải mà trí nhớ những phim không được giải! Riêng Huế dự 18 phim thì trúng giải cả 18. Nó ỡm ờ theo kiểu thưởng trong chương trình "vườn cổ tích" trên ti vi. Đội thắng được phát 4 hạt dẻ thì đội thua cũng được an ủi 2 hạt vậy. May thay, giải liên hoan phim điện ảnh lần chót thế kỉ này nó đã khác. Nó thực sự là một giải nghệ thuật cho người lớn.

N.K.T
(123/05-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Người đi trước giúp người đi sau. Nhận và cho đã trở thành đạo lý được các nghệ sĩ thấm nhuần.

  • Thông tin từ Nhà hát Tuồng Việt Nam cho hay, đơn vị này đang tiến hành phục dựng vở tuồng lịch sử “Tiếng gọi non sông” của tác giả Kính Dân.

  • Đoàn kịch nói Kim Cương đã thành công rực rỡ và Kim Cương “trở thành người nghệ sĩ của nhân dân”. Nhưng bà đã dũng cảm rời xa ánh đèn sân khấu mà chọn công việc từ thiện, phục vụ người nghèo một cách thầm lặng.

  • Sau NSND Bảy Nam, dòng họ nghệ thuật này còn một nữ nghệ sĩ danh tiếng lẫy lừng nữa, chính là NSND Kim Cương. Lẫy lừng bởi Kim Cương đi tiên phong trong việc thành lập bộ môn kịch nói ở miền Nam, làm rạng rỡ cho sân khấu với hàng loạt vở diễn để đời.

  • NSND Bảy Nam đã để lại hàng loạt chân dung bà mẹ trên sàn diễn mà không ai thay thế nổi. Bà diễn như không. Những cảnh đời trên sân khấu cứ chân thật và giản dị nhưng làm người xem phải rúng động con tim.

  • NSND Bảy Nam là em ruột của nghệ sĩ Năm Phỉ, là mẹ của NSND Kim Cương. Bà không chỉ là diễn viên xuất sắc mà còn là một “bà bầu” máu lửa, nhưng hầu như suốt cả đời phải vất vả chống chèo lo cho cả gia đình.

  • Ông Nguyễn Ngọc Cương có ba người vợ, người nào cũng lẫy lừng tiếng tăm. Người vợ thứ 2 là cô đào Năm Phỉ tài sắc lạ lùng, từng sang Pháp chinh phục khán giả, và đã ra đi như một cành hoa mong manh…

  • Bà Ba Ngoạn sinh con trai là Nguyễn Ngọc Cương, sau này trở thành một trong những người tiên phong gầy dựng cải lương trong buổi đầu hình thành. Ông cũng là người đào tạo ra những ngôi sao Năm Phỉ, Bảy Nam, Ngọc Sương, Thanh Tùng...

  • Đã 10 năm NSND Bảy Nam qua đời (2004), để lại nỗi tiếc thương khó phai trong lòng NSND Kim Cương - con gái bà -  và người hâm mộ. Để tưởng nhớ cây đại thụ của cải lương và kịch nói miền Nam, chúng tôi xin phác họa những ngày tháng quang vinh trong dòng họ nghệ thuật của bà.

  • Xây dựng nhà lưu niệm, thiết kế lăng mộ, đúc tượng đồng…, nhiều nghệ sĩ muốn lưu lại dấu tích của mình cho hậu thế

  • Một khi sự giả dối tồn tại trong cuộc sống gia đình, trong tình yêu lứa đôi thì hạnh phúc sẽ không thể trọn vẹn, bền vững. Và sai lầm trong nhất thời dễ dàng dẫn dắt những niềm vui và hạnh phúc của cuộc đời con người đến với những khổ đau, chia ly, mất mát… Đó là một thông điệp ý nghĩa về giá trị cuộc sống và hạnh phúc gia đình trong kịch mới Lạc giữa phố người (tác giả, đạo diễn: Bùi Quốc Bảo), vừa công diễn tại sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh.

  • HOÀNG DIỆP LẠC


    Văn hóa xi nê
    Có thể nói rằng cinema (điện ảnh hay còn gọi là chiếu bóng) là món ăn hấp dẫn cho nhãn căn và nhĩ căn của một thời.

  • E.GRAS
    (Chủ sự Tài chính An nam, Huế 1910)

    Vào một buổi tối ở vùng Gia Hội, cuối con đường hẹp đầy ổ gà, chỉ có ánh sáng lờ mờ của những cây đèn tim ở bọng của những túp nhà tranh An nam, và đây là một ngôi nhà lớn hơn, sau dãy hàng rào bông bụt và chè tàu dưới rặng tre sẫm bóng.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Đêm xem phim Hà Nội mùa đông năm 46 vừa rồi là lần thứ 3 tôi xem phim này. Tôi không còn nhớ cảm xúc của tôi 2 lần xem trước. Nhưng lần này, không chỉ một lần nước mắt tôi trào ra. Tôi cầm máy gọi Đặng Nhật Minh: “Cảm ơn anh vô cùng. Vô cùng!”

  • SÂM THƯƠNG        

    Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời Điện ảnh du nhập
    Sau rất nhiều những cuộc tranh cãi kéo dài, cuối cùng tất cả những người hoạt động điện ảnh khắp nơi trên thế giới đã nhất trí coi ngày 28/12/1895 mà anh em Auguste và Louis Lumière chiếu phim trong nhà hầm của Quán cà phê số 14 đại lộ Capucines, Paris là NGÀY KHAI SINH của điện ảnh.

  • VŨ NGỌC LIỄN

    Vụ án này khởi đầu từ vở tuồng Quần tiên hiến thọ của hai tác giả: Minh Mạng và Nguyễn Bá Nghi (1). Người phê bình tác phẩm là Vương Hữu Quang.

  • LGT: Ngày 19/5 vừa qua, nghệ sĩ Ngọc Bình đã vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân (NSND). Cùng với Nghệ sĩ Bạch Hạc, anh là một trong hai NSND đầu tiên của nghệ thuật biểu diễn tại Huế. Trong sự nghiệp hơn 40 năm qua, nghệ sĩ Ngọc Bình đã đóng trên 70 vai diễn cả kịch và điện ảnh, đồng thời là đạo diễn dàn dựng trên 100 vở bao gồm kịch và ca múa nhạc và giành được nhiều giải thưởng cao quý về nghệ thuật…

  • XUÂN HẢI

    (Kịch 1 Màn 1 Cảnh)

  • Vừa qua, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã tổ chức giám sát tình hình hoạt động và thi hành chính sách pháp luật về nghệ thuật biểu diễn (NTBD) tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Thừa Thiên Huế và Gia Lai; tổ chức lấy ý kiến giới chuyên môn và các nhà quản lý. Ủy ban cũng đã làm việc với lãnh đạo các Bộ: Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), Nội vụ, Tài chính về tình hình hoạt động và thi hành chính sách pháp luật về NTBD. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với GS Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban sau khi ông tham gia đoàn giám sát nói trên.

  • MINH HẰNGTừ trước đến nay vấn đề không ngừng nâng cao chất lượng nghệ thuật là một yêu cầu hàng đầu, thường xuyên và nghiêm túc đối với anh chị em văn nghệ sĩ. Thông qua chất lượng nghệ thuật chúng ta có thể đánh giá sự trưởng thành của mỗi đơn vị nghệ thuật trên các mặt chính trị, tư tưởng và khả năng chuyên môn của một tập thể nghệ sĩ.