Thi hào Maiakovski - Ảnh: internet
Lili của tôi (Thay thư) Không khí bị khói thuốc ngốn Căn phòng là một chương của địa ngục trong thơ Kruycônykiăng (1) Chính nơi đây, nơi cửa sổ này - em còn nhớ không? Tôi đã vuốt ve cuồng nhiệt lần đầu tiên bàn tay em Nhưng bây giờ em ở kia trái tim bọc thép Nếu mai kia em đuổi tôi Có lẽ với một tràng rủa mắng Cánh tay tôi bị những cơn run giật lóng ngóng sẽ khó tìm ra tay áo khoác trong căn phòng đợi rối tung Tôi sẽ chạy trốn băng mình trên đường hung dữ điên rồ Nỗi tuyệt vọng dày vò tôi Không, em thân yêu ơi, Nỗi dịu dàng của tôi Không thể có sự thương tổn gớm ghê vậy: bây giờ Chính lúc chúng ta phải chia tay bằng mọi cách - bởi em sẽ không bao giờ phạm tới tình yêu tôi như quả tạ sẽ trĩu nặng trên em Hãy để tôi nức nở lời than cay đắng lần cuối con bò bị cày bừa kiệt sức còn đằm mình ngủ yên được trong làn nước lạnh nhưng chẳng có biển nào cho tôi ngoài tình em và tôi có thể khóc thật nhiều Tình em chẳng tặng tôi vùng biển nghỉ ngơi Con voi khi mệt mỏi tột cùng trên cát bỏng Còn sẽ ngủ được như ý Nhưng ngoài tình em ra Tôi chẳng có mặt trời nào cho tôi Vậy mà tôi không biết ở đâu không biết em với ai Nếu anh ta là nhà thơ kẻ phải chịu đựng Những nhục hình của em Có lẽ hắn sẽ đánh đổi tình yêu để lấy vinh quang rực rỡ Nhưng tôi Chỉ có tiếng ngân vang làm tôi ngập tràn hạnh phúc đó chính là tên em sùng mộ chẳng có cái nhảy nào trong trống không chẳng có nỗi độc ác nào làm tôi chết được và tôi sẽ không tựa cò súng vào thái dương Tia nhìn em đối với tôi là nhát dao độc nhất là cò súng độc nhất mai kia em sẽ quên rằng tôi đã đội vòng nguyệt quế cho em rằng tình yêu đã đốt cháy một trái tim để khai hoa và những câu thơ tôi sắp quay cuồng trong vũ hội náo nhiệt và phù hư này trái tim đập hồi hộp, để giữ em lại liệu những câu thơ tôi, những tờ giấy chết Có thể buộc em chăng? Ít ra hãy để tôi phủ những bước chân mang em bằng một lời âu yếm cuối cùng 26-5-1916 MAIAKOVSKI Bửu Nam dịch theo bản tiếng Pháp của Henri Abril. ----------- Ám chỉ bài thơ vị lai Trò chơi trong địa ngục của Kroutchongkh và Khlebnêkov.
bài thơ chưa xong I Nàng yêu tôi? một chút? hay nhiều? Tôi vặn xoắn đôi bàn tay mình và những ngón tay tôi có lần tôi bứt chúng quăng đi như thể trong cơn gió tháng năm người ta trẩy đầy hy vọng những cánh hoa mácgơrít (1) bên vệ đường như thể những anh thợ cạo những bác thợ hớt tóc tìm nơi tôi những sợi tóc bạc những sợi tóc hằng hà vô số kể làm bạc trắng những năm tháng của tôi để không khi nào tôi ước ao tôi tin điều đó mà tôi trở nên biết xấu hổ IV Em cần được ngủ thêm một giờ nữa Trong đêm giải Ngân hà sông Ôka (2) ánh bạc Ích gì kéo em ra khỏi giấc ngủ làm em hoảng hốt lo âu bởi những dòng tín điện nhanh như chớp chẳng có gì là khẩn cấp đối với tôi như người ta nói tai nạn là hẳn xong và không còn gì để nói Chiếc thuyền tình đã vỡ tan nơi câu chuyện vặt thường ngày Chúng ta đã trắng nợ với nhau Ích gì để kể ra những tổn thương chết người mà chúng ta gây ra cho nhau Hãy nhìn mọi thứ chung quanh yên tĩnh nhường nào Đêm đã dâng những vì sao cho bầu trời Chính giờ khắc này đây người ta thức giấc và người ta nói với các thế kỷ với lịch sử với toàn thế giới. V Tôi biết sức mạnh của các từ và vang âm báo trước của chúng Không phải những từ kích động tiếng hoan hô nơi những lô rạp hát mà những từ làm chuyển động những chiếc quan tài và bốn chân gỗ sồi của chúng đột nhiên bước đi đúng phép Thường khi còn nằm nơi hộp chữ trước khi được in ra Những từ tuy thế đã lao đến lật đổ những rào chắn Chúng rung lên qua các thế kỷ và những đoàn tàu trườn đi hối hả sẽ đến vuốt ve những bàn tay lao nhọc vì thơ Tôi biết sức mạnh của những từ Người ta có lẽ sẽ nói chẳng hề gì Dưới những bước chân của cuộc vũ vài bông hoa tan tác Song con người chính là trái tim thân xác đôi môi. 1928-1930 MAIAKOVSKI Bửu Nam dịch theo bản tiếng Pháp của Êlizabét Muraviôra ------------- (1). Hoa Mácgơrít: loại bạch cúc (tiếng Anh Ox-eye daisy) ở Âu Tây, và Nga, những người đang yêu thường bói xem người mình yêu có yêu mình không, nhiều hay ít, bằng cách ngắt từng cánh hoa một vào mùa xuân. (2). Sông Ôka: một dòng sông lớn ở Nga đổ vào sông Vôn-ga. (5/2-84) |
Muin Bseiso - Rasul Gamzatov
Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899 -1977) là nhà văn Nga - Mỹ nổi tiếng. Ông sáng tác ở nhiều thể loại văn học khác nhau. Ông được giải thưởng Nôben văn học năm 1955. Những tiểu thuyết đặc sắc của ông là: - Quà tặng (1937), Đến nơi xử tử (1935 - 1936), Lolita (1955)…
L.T.S. "BÍ ẨN TÌNH YÊU" là tập thơ chọn lọc những bài thơ tình nổi tiếng thế giới do dịch giả Đắc Lê và nhà thơ Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn Học ấn hành 1993. TCSH trân trọng giới thiệu dưới đây một số bài trích trong tập thơ đó.
Ogiwara Seisensui - Murakami Kijo - Saito Sanki - Ozaki Hosai
Tác giả Jon Fosse, người Na Uy, 64 tuổi, đạt Giải Nobel Văn học 2023 nhờ “những vở kịch và văn xuôi tân tiến, lên tiếng cho những điều không thể nói”.
Takít Vácvisiôtít - Côxtát Haridít - Côxtót Xteriôpulốt - Ghê-oóc-ghi Xê-phê-rít
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm sinh năm 1910, quê tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Từ thuở nhỏ, ông đã có thiên hướng yêu thích thơ ca kim cổ.
MARINA TSVETAEVA
RAINER MARIA RILKE
LOUISE GLUCK
(Nobel Văn học năm 2020)
Là tác giả bốn cuốn sách viết về Việt
Mihai Eminescu (1850 - 1889) là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Rumani. Sống nhiều ở miền núi, nhất là thuộc hai vùng Ardeal và Moldova, ông am hiểu sâu sắc về đời sống cực khổ của người dân trong vùng cũng như toàn xã hội. Thơ Eminescu trĩu nặng tình yêu thiên nhiên, con người, thấm đượm chất văn hóa dân gian của dân tộc mình.
Louise Glück - Jaroslav Seifert - Wislawa Szymborska - Pablo Neruda - Boris Pasternak
Thi sĩ Hy Lạp, 1911 - 1996, giải Nobel Văn chương năm 1979. Nỗ lực chính của thơ ông là gạt khỏi tâm thức con người những bất công phi lý và bồi đắp các yếu tố thiên nhiên thông qua sức mạnh đạo đức, để đạt được sự minh triết cao nhất có thể có trong sự biểu đạt; và cuối cùng, là để đạt đến sự tiếp cận cõi huyền nhiệm của ánh sáng, những siêu hình của mặt trời mà ông là một “người sùng bái” - một kiểu thần tượng theo định nghĩa của riêng ông. Nghệ thuật của ông mang tính đồng hiện hướng đến kỹ thuật thi ca nhằm giới thiệu cấu trúc nội tâm, điều này thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của ông.
Trần Phương Kỳ giới thiệu và dịch
LTS. Thơ ca vốn có truyền thống lâu đời. Thơ ca của các dân tộc da đen cũng mang những đặc thù ấy. Từ những nhà thơ ở xứ Akhenaton bên Ai Cập (Thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên) cho đến Gwendolyn Brooks, Leroi Jones và những giọng thơ mạnh mẽ của các nhà thơ Mỹ đương thời, chặng đường ấy tính ra đã mấy ngàn năm.
CAROLYN FORCHÉ
LTS: Tên tuổi của Ôma Khayam, nhà thơ, nhà khoa học Ba Tư thế kỷ XI đã được bạn đọc Việt Nam biết đến và yêu thích qua tập Thơ cổ Ba Tư, NXB Văn Học ấn hành năm 1984. Thơ của ông ngang tàng, độc đáo, mãnh liệt và đầy tính triết lý sâu sắc chủ yếu tập trung vào đề tài tình yêu và rượu.
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm卞之琳 (1910 - 2000), nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu tiêu biểu của văn học Trung Quốc hiện đại. Quê gốc Giang Tô. Bút danh thường dùng: Quý Lăng.
Nghe như cổ tích chuyện cậu bé Ali Ahmad Said Esber, con nhà nông dân vùng Al Qassabina, miền tây nước Syria: từ chỗ nhà nghèo, không được tới trường, sau có cơ hội đi học và đạt trình độ tiến sĩ; từ chỗ thuở nhỏ làm thơ gởi các báo nhưng không bài nào được đăng, sau lại là người sáng lập một tạp chí chuyên về thơ và trở thành “nhà thơ vĩ đại nhất còn sống của thế giới Ả Rập” với bút danh Adonis.
JAN WAGNER (Schriftsteller)
J. Wagner sinh ngày 18/10/1971 tại Hamburg CHLB Đức, nhà thơ, nhà văn và thông dịch viên.