Takít Vácvisiôtít - Côxtát Haridít - Côxtót Xteriôpulốt - Ghê-oóc-ghi Xê-phê-rít
Ảnh: wiki
TAKÍT VÁCVISIÔTÍT
Lời thuyết giáo chung
Chúng ta hãy yêu giọt nước đơn sơ.
Trái tim luôn kiêu hãnh của thân cây tốt tươi bị đẵn.
Công việc nhọc nhằn của người tiều phu trong ngày hè nực nội.
Cánh chim bay mê say vút cao.
Tiếng cầm thú rên giờ hấp hối.
Cái nhìn sáng trong cởi mở.
Đôi mắt ôm trọn khung trời.
Và có thể ngay ngày mai thôi
Mọi trẻ thơ con của người đời
Đều sẽ có những gương mặt sao lấp lánh.
CÔXTÁT HARIDÍT
Ở đâu đêm rình rập?
Em giấu tay đâu rồi? Đêm nào đã
Cướp giọng em? Nay em đến cùng anh
Mắt tựa cửa sổ mở vào bóng tối,
Tay như thân cây bị đốn đi rồi
Và giọng nói quên bẵng cả mùa xuân.
Em lưu lạc những đâu? Nơi đâu đêm rình rập?
Cơn gió nào đã cướp
Năm tháng đời lẽ ra
Em có thể dành cho anh hết?
CÔXTÓT XTERIÔPULỐT
Lặng yên
Rơi xuống đời chúng ta
bầu lặng yên đặc quánh
như lặng yên
sau tràng súng.
Bầu lặng yên vô tận.
Biết phải làm gì đây
đành đi lại từ đầu
để ít ra còn sống sót.
Chúng ta thành một lũ lưu vong
ở ngay đây
trên quê kiểng chính mình
chỉ còn nghe thấy tiếng linh cẩu vằn và chó sa-can gào thét.
Những người đánh trống không có trống.
Những người thổi kèn không có kèn.
Những người lính không có kiếm.
Nói
đó ít ra cũng là lối thoát
GHÊ-OÓC-GHI XÊ-PHÊ-RÍT
Chuyện kể
Anh ấy luôn luôn vừa đi vừa khóc
không ai biết vì sao
có thể bởi một tình yêu để mất
tình yêu đã từng khiến cả chúng ta khổ đau
trên bãi biển hè nhạc vang từ máy hát
Những người khác bận làm ăn
giấy tờ lũ con ngày một lớn và các bà vợ
già đi một cách khó khăn
vậy mà mắt anh ấy luôn như hoa anh túc
như những mảnh mùa xuân
hai dòng suối mặn trong góc đôi mắt ấy
Anh ấy đi bao nẻo đường không nghỉ
bước trên lưng mặt đất bị chia cắt thành những hình vuông
cỗ máy của nỗi đau vô cùng
đến nỗi chẳng còn ý nghĩa
Ai đó nghe thấy
anh ấy thầm thì
kể về những tấm gương nứt của thời quá khứ xa xăm
không thể nào hàn gắn
Ai đó nghe thấy anh ấy kể về những giấc mơ
ảnh hình ác mộng
gương mặt đau đớn của tình yêu
Chúng ta quen cảnh anh ấy bước đi lặng yên kiêu hãnh
nhưng anh ấy cứ khóc mãi không ngừng
như cây liễu bên sông bạn thấy
khi tỉnh dậy bất giác nặng nề trong nhập nhoạng bình minh.
Chúng ta quen không bận tâm vì anh ấy
như một vật thoáng bay qua mắt ta nhìn
Tôi nói với các bạn về anh ấy bởi
tôi không thể tìm thấy được gì nữa cả
dù các bạn đã quen dửng dưng trước mọi sự
Tôi xin được cúi đầu
Hồng Thanh Quang dịch
(TCSH53/01&2-1993)
Muin Bseiso - Rasul Gamzatov
Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899 -1977) là nhà văn Nga - Mỹ nổi tiếng. Ông sáng tác ở nhiều thể loại văn học khác nhau. Ông được giải thưởng Nôben văn học năm 1955. Những tiểu thuyết đặc sắc của ông là: - Quà tặng (1937), Đến nơi xử tử (1935 - 1936), Lolita (1955)…
L.T.S. "BÍ ẨN TÌNH YÊU" là tập thơ chọn lọc những bài thơ tình nổi tiếng thế giới do dịch giả Đắc Lê và nhà thơ Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn Học ấn hành 1993. TCSH trân trọng giới thiệu dưới đây một số bài trích trong tập thơ đó.
Ogiwara Seisensui - Murakami Kijo - Saito Sanki - Ozaki Hosai
Tác giả Jon Fosse, người Na Uy, 64 tuổi, đạt Giải Nobel Văn học 2023 nhờ “những vở kịch và văn xuôi tân tiến, lên tiếng cho những điều không thể nói”.
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm sinh năm 1910, quê tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Từ thuở nhỏ, ông đã có thiên hướng yêu thích thơ ca kim cổ.
MARINA TSVETAEVA
RAINER MARIA RILKE
LOUISE GLUCK
(Nobel Văn học năm 2020)
Là tác giả bốn cuốn sách viết về Việt
Mihai Eminescu (1850 - 1889) là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Rumani. Sống nhiều ở miền núi, nhất là thuộc hai vùng Ardeal và Moldova, ông am hiểu sâu sắc về đời sống cực khổ của người dân trong vùng cũng như toàn xã hội. Thơ Eminescu trĩu nặng tình yêu thiên nhiên, con người, thấm đượm chất văn hóa dân gian của dân tộc mình.
Louise Glück - Jaroslav Seifert - Wislawa Szymborska - Pablo Neruda - Boris Pasternak
Thi sĩ Hy Lạp, 1911 - 1996, giải Nobel Văn chương năm 1979. Nỗ lực chính của thơ ông là gạt khỏi tâm thức con người những bất công phi lý và bồi đắp các yếu tố thiên nhiên thông qua sức mạnh đạo đức, để đạt được sự minh triết cao nhất có thể có trong sự biểu đạt; và cuối cùng, là để đạt đến sự tiếp cận cõi huyền nhiệm của ánh sáng, những siêu hình của mặt trời mà ông là một “người sùng bái” - một kiểu thần tượng theo định nghĩa của riêng ông. Nghệ thuật của ông mang tính đồng hiện hướng đến kỹ thuật thi ca nhằm giới thiệu cấu trúc nội tâm, điều này thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của ông.
Trần Phương Kỳ giới thiệu và dịch
LTS. Thơ ca vốn có truyền thống lâu đời. Thơ ca của các dân tộc da đen cũng mang những đặc thù ấy. Từ những nhà thơ ở xứ Akhenaton bên Ai Cập (Thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên) cho đến Gwendolyn Brooks, Leroi Jones và những giọng thơ mạnh mẽ của các nhà thơ Mỹ đương thời, chặng đường ấy tính ra đã mấy ngàn năm.
CAROLYN FORCHÉ
LTS: Tên tuổi của Ôma Khayam, nhà thơ, nhà khoa học Ba Tư thế kỷ XI đã được bạn đọc Việt Nam biết đến và yêu thích qua tập Thơ cổ Ba Tư, NXB Văn Học ấn hành năm 1984. Thơ của ông ngang tàng, độc đáo, mãnh liệt và đầy tính triết lý sâu sắc chủ yếu tập trung vào đề tài tình yêu và rượu.
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm卞之琳 (1910 - 2000), nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu tiêu biểu của văn học Trung Quốc hiện đại. Quê gốc Giang Tô. Bút danh thường dùng: Quý Lăng.
Nghe như cổ tích chuyện cậu bé Ali Ahmad Said Esber, con nhà nông dân vùng Al Qassabina, miền tây nước Syria: từ chỗ nhà nghèo, không được tới trường, sau có cơ hội đi học và đạt trình độ tiến sĩ; từ chỗ thuở nhỏ làm thơ gởi các báo nhưng không bài nào được đăng, sau lại là người sáng lập một tạp chí chuyên về thơ và trở thành “nhà thơ vĩ đại nhất còn sống của thế giới Ả Rập” với bút danh Adonis.
JAN WAGNER (Schriftsteller)
J. Wagner sinh ngày 18/10/1971 tại Hamburg CHLB Đức, nhà thơ, nhà văn và thông dịch viên.
THÁI KIM LAN
KINHIN* im Frühling
(*Das Gehen in Achsamkeit und Bewußtheit)