Trang thơ Carolyn Forché

09:48 16/07/2019


CAROLYN FORCHÉ

Nhà thơ, giáo sư Carolyn Forché là một trong những nữ thi sĩ đương đại hàng đầu của Mỹ và là tác giả của 12 quyển sách. Chồng cũ của bà từng là một cựu binh tham chiến ở Việt Nam. Chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh qua những vết thương tâm lý và thể xác dai dẳng của chồng, bà đã tích cực tham gia phong trào phản chiến. Trong một cuộc biểu tình phản đối việc thả bom và mìn xuống cảng Hải Phòng, bà đã bị cảnh sát đánh dùi cui vào đầu và bị thương. Bà sáng tác bài thơ “Huế: từ quyển sổ tay” khi đến Việt Nam lần đầu tiên. Các tác phẩm thơ của giáo sư Carolyn Forché đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá như: giải thưởng thơ Lannan, giải thưởng John Simon Guggenheim, giải thưởng của Quỹ Phát triển nghệ thuật quốc gia, giải thưởng Robert Creeley, giải thưởng Windham-Campbell… Hiện bà là giáo sư của trường đại học Georgetown và là giám đốc trung tâm thơ ca Georgetown Lannan.

Nguyễn Phan Quế Mai giới thiệu và dịch




Huế: từ quyển sổ tay

Xuôi trên sông Hương trên chiếc thuyền rồng
Chúng tôi đến ngôi chùa với ba pho tượng Phật vàng trầm mặc
Hãy khẩn cầu ở đây - một cậu bé thầm thì - ông bà có thể xin Phật ban cho hạnh phúc
Chúng tôi thắp hương, thả những chiếc nến trong túi giấy xuống nước
Thân xác chúng tôi rời đi, hồn ở lại trên thuyền


Những người lính bên cạnh tôi đã từ bỏ chiến tranh từ nhiều thế kỷ
Tóc họ bạc màu, những mái tóc pha sương, vầng trăng mắc kẹt giữa bông hoa sứ
Nước mắt họ trôi cùng với sông Hương
Nước mắt họ chảy theo ánh nến chập chờn


Hàng nghìn ngọn nến trôi trên sông, một quyển sổ tay mở ra trong bóng tối
Bầu không khí yên lặng như sự im lặng trước khi mìn nổ tung


Một thời những người lính này đã bắn vào nhau
Bây giờ họ lặng lẽ bên nhau, những bông hoa sứ cạnh những bông hoa sứ
Chợt tiếng những cánh cò xao xác vụt lên, những sợi xích xe đạp lạch cạnh trên phố
Ở đây trên mười ngàn ngôi mộ những bông cúc nằm nghiêng


Chúng ta như những áng mây cứ trôi đi mê mải
Một cựu binh thở dài và nói
Sẽ thế nào khi chúng ta không giống những đám mây?
Chúng ta là những ống sáo trên cánh đồng nằm chờ hơi thở



Khu vườn Shukkei-en, Hiroshima

Bằng con đường của một chiếc cầu đã biến mất chúng tôi vượt qua con sông này như đám mây tuyết dâng trào lên núi
Bà đã luôn sợ hãi việc đến nơi này
Đó là con sông mà bà nhớ nhất, cả người sống và người chết đang khóc than cầu cứu
Một thế giới đã không cho phép những giọt nước mắt và cả sự than van


Những cây tùng vuốt tóc cho bà khi bà đi ngang bên dưới, và những sợi kẽm gai sáng chóe cũng thế
Nơi hiện có chiếc hồ, ở đó đã là một chiếc hồ, nơi những cây thông đen đang mọc, nơi đã mọc những cây thông đen


Nơi hiện không có quán trà, tôi thấy một quán trà bằng gỗ và thi thể của những con người đã ngủ bên trong
Bên kia bờ thành phố Ota, một cây liễu rủ khắc trí nhớ của nó về gương mặt họ thẳm sâu vào nước
Nơi ánh sáng chạm vào khuôn mặt, nét chữ của trái tim đang được viết lên
Bà chạm vào một thân cây cháy đen được rơm bao bọc, rồi nói:
Tôi đã kiệt sức và da của tôi lủng lẳng trên những đầu ngón tay như vải
Cô có nghĩ rằng trong một phút giây chúng tôi đã là con người đối với họ?


Bà đến chỗ tượng thiên thần bằng đá, những con hạc giấy trên tay
Không phải thiên thần, mà là người phụ nữ đã từng tồn tại, người đã đi qua khu vườn Shukkei-en
gọi cá chép nổi lên mặt nước bằng tiếng vỗ tay


Người Mỹ có nghĩ đến chúng tôi không?
Bà bắt đầu nói khi chúng tôi ngồi bệt xuống những bàn cầu:
nếu cô muốn, tôi sẽ kể cô nghe, nhưng tôi sẽ không bao giờ nói hết
Chúng tôi đã cố băng bó những vết bỏng của mình với dầu thực vật


Tóc bà là bọt cơm trắng dâng lên ấm đun nước, cũng như tâm trí của bà
Trong những năm sau chiến tranh bà đã trở trăn về việc sẽ sống thế nào


Lời chào thông thường dozo-yirosghku có nghĩa là làm ơn chăm sóc tôi
Tất cả nạn nhân bom nguyên tử còn sống tới giờ từng là những đứa trẻ
Một nghĩa trang nhìn thấy được từ trên không là thành phố của một đứa trẻ


Tôi không thích bông hoa đỏ này vì nó gợi tôi nhớ đến bộ não của một người phụ nữ bị nghiền nát dưới một mái nhà
Có lẽ ngôn ngữ của tôi chính xác quá, và vì thế khó hiểu?
Biết bao năm rồi, chúng tôi đã không cảm thấy điều mà cô gọi là hạnh phúc
Nhưng thỉnh thoảng, nếu gặp may, chúng tôi trải nghiệm một điều gần như thế
Như cuộc đời chúng tôi đại diện cuộc đời, và khu vườn này, khu vườn
Và trong sự yên lặng bao quanh những gì đã xảy ra với chúng tôi


tiếng chuông đánh thức Thánh thần là điều chúng tôi đã và đang nghe thấy
                                                                       
Hiroshima, 1983



Đại tá(*)

Những gì bạn đã nghe là sự thật. Tôi đã ở trong nhà ông ta. Vợ ông đã mang tới khay cà phê và đường. Con gái của ông ta đã dũa móng tay, con trai ông ra ngoài chơi đêm ấy. Ở đó có những tờ báo ngày, những con chó cưng, một khẩu súng trên chiếc nệm cạnh ông. Bên trên ngôi nhà, vầng trăng đung đưa xao xác trên sợi dây đen của nó. Chương trình truyền hình về cảnh sát đang phát trên tivi. Bằng ngôn ngữ tiếng Anh. Những chiếc chai vỡ ẩn mình trong những bức tường bao quanh nhà để múc đi xương đầu gối trên đôi chân của một người hoặc cắt đôi tay của người ấy thành sợi. Trên cửa sổ những chiếc lưới sắt như lưới trong hàng rượu. Chúng tôi ăn tối, sườn cừu, rượu ngon, một chiếc chuông vàng đặt trên bàn để gọi cô người hầu. Cô người hầu đưa lên những quả xoài xanh, muối, một loại bánh mỳ. Tôi được hỏi tôi có thích đất nước này không. Có một quảng cáo ngắn bằng tiếng Tây Ban Nha. Vợ ông ta dọn đi tất cả. Rồi chúng tôi nói chuyện về việc cầm quyền hiện nay đã trở nên khó khăn đến thế. Con vẹt thốt lên câu chào trên hiên nhà. Đại tá bảo nó câm miệng, và đẩy bàn đứng lên. Bằng ánh mắt, bạn tôi bảo tôi: đừng nói gì cả. Đại tá quay lại bàn với chiếc túi dùng để mang hàng về nhà sau khi đi chợ. Ông đổ tràn ra bàn bao nhiêu những tai người. Chúng như những nửa quả đào khô. Không có cách nào khác để nói về chuyện này. Ông ta cầm một chiếc tai trên tay, lắc mạnh nó vào mặt chúng tôi, thả nó vào cốc nước. Ở đó chiếc tai sống lại. Tao mệt mỏi với việc lãng phí thời gian, ông ta nói. Về quyền con người của bất cứ đứa nào, hãy bảo với người dân của mày tao đéo thèm quan tâm đến họ. Bằng cánh tay ông ta gạt những chiếc tai xuống sàn nhà và nâng cao những giọt rượu cuối cùng lên không trung. Cái này dành cho thơ của cô, đúng không? Ông ta nói. Mảnh vụn giọng ông ta găm vào một số chiếc tai. Một số chiếc tai trên sàn bị dí sát xuống đất.

                                                San Salvador, tháng 5, 1978

............................................................
(*) Bài thơ “Đại tá” viết về nội chiến ở đất nước El Salvador nơi đó có hơn 100.000 thường dân trong tổng
dân số 5,5 triệu người đã bị giết hại. Hằng trăm ngàn người phải bỏ xứ sở ra đi và hàng trăm ngàn người khác
phải sống ở trại tị nạn trên chính đất nước họ.


(TCSH363/05-2019)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Muin Bseiso - Rasul Gamzatov

  • Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899 -1977) là nhà văn Nga - Mỹ nổi tiếng. Ông sáng tác ở nhiều thể loại văn học khác nhau. Ông được giải thưởng Nôben văn học năm 1955. Những tiểu thuyết đặc sắc của ông là: - Quà tặng (1937), Đến nơi xử tử (1935 - 1936), Lolita (1955)…

  • L.T.S. "BÍ ẨN TÌNH YÊU" là tập thơ chọn lọc những bài thơ tình nổi tiếng thế giới do dịch giả Đắc Lê và nhà thơ Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn Học ấn hành 1993. TCSH trân trọng giới thiệu dưới đây một số bài trích trong tập thơ đó.


  • Ogiwara Seisensui - Murakami Kijo - Saito Sanki - Ozaki Hosai


  • Tác giả Jon Fosse, người Na Uy, 64 tuổi, đạt Giải Nobel Văn học 2023 nhờ “những vở kịch và văn xuôi tân tiến, lên tiếng cho những điều không thể nói”.


  • Takít Vácvisiôtít - Côxtát Haridít - Côxtót Xteriôpulốt - Ghê-oóc-ghi Xê-phê-rít

  • BIỆN CHI LÂM

    Biện Chi Lâm sinh năm 1910, quê tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Từ thuở nhỏ, ông đã có thiên hướng yêu thích thơ ca kim cổ.


  • LOUISE GLUCK
    (Nobel Văn học năm 2020)

  • Là tác giả bốn cuốn sách viết về Việt Nam: Vây giữa tình yêu, Ngày phán xử cuối cùng, Thơ nảy từ tro, Bầu trời trong lòng đất. Blaga Dimitrova là người bạn lớn của chúng ta.

  • Mihai Eminescu (1850 - 1889) là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Rumani. Sống nhiều ở miền núi, nhất là thuộc hai vùng Ardeal và Moldova, ông am hiểu sâu sắc về đời sống cực khổ của người dân trong vùng cũng như toàn xã hội. Thơ Eminescu trĩu nặng tình yêu thiên nhiên, con người, thấm đượm chất văn hóa dân gian của dân tộc mình.


  • Louise Glück - Jaroslav Seifert - Wislawa Szymborska - Pablo Neruda - Boris Pasternak

  • Thi sĩ Hy Lạp, 1911 - 1996, giải Nobel Văn chương năm 1979. Nỗ lực chính của thơ ông là gạt khỏi tâm thức con người những bất công phi lý và bồi đắp các yếu tố thiên nhiên thông qua sức mạnh đạo đức, để đạt được sự minh triết cao nhất có thể có trong sự biểu đạt; và cuối cùng, là để đạt đến sự tiếp cận cõi huyền nhiệm của ánh sáng, những siêu hình của mặt trời mà ông là một “người sùng bái” - một kiểu thần tượng theo định nghĩa của riêng ông. Nghệ thuật của ông mang tính đồng hiện hướng đến kỹ thuật thi ca nhằm giới thiệu cấu trúc nội tâm, điều này thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của ông.
                                    Trần Phương Kỳ giới thiệu và dịch

  • LTS. Thơ ca vốn có truyền thống lâu đời. Thơ ca của các dân tộc da đen cũng mang những đặc thù ấy. Từ những nhà thơ ở xứ Akhenaton bên Ai Cập (Thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên) cho đến Gwendolyn Brooks, Leroi Jones và những giọng thơ mạnh mẽ của các nhà thơ Mỹ đương thời, chặng đường ấy tính ra đã mấy ngàn năm. 

  • LTS: Tên tuổi của Ôma Khayam, nhà thơ, nhà khoa học Ba Tư thế kỷ XI đã được bạn đọc Việt Nam biết đến và yêu  thích qua tập Thơ cổ Ba Tư, NXB Văn Học ấn hành năm 1984. Thơ của ông ngang tàng, độc đáo, mãnh liệt và đầy tính triết lý sâu sắc chủ yếu tập trung vào đề tài tình yêu và rượu.

  • BIỆN CHI LÂM

    Biện Chi Lâm卞之琳 (1910 - 2000), nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu tiêu biểu của văn học Trung Quốc hiện đại. Quê gốc Giang Tô. Bút danh thường dùng: Quý Lăng.

  • Nghe như cổ tích chuyện cậu bé Ali Ahmad Said Esber, con nhà nông dân vùng Al Qassabina, miền tây nước Syria: từ chỗ nhà nghèo, không được tới trường, sau có cơ hội đi học và đạt trình độ tiến sĩ; từ chỗ thuở nhỏ làm thơ gởi các báo nhưng không bài nào được đăng, sau lại là người sáng lập một tạp chí chuyên về thơ và trở thành “nhà thơ vĩ đại nhất còn sống của thế giới Ả Rập” với bút danh Adonis.

  • JAN WAGNER (Schriftsteller)

    J. Wagner sinh ngày 18/10/1971 tại Hamburg CHLB Đức, nhà thơ, nhà văn và thông dịch viên.

  • THÁI KIM LAN

    KINHIN* im Frühling
    (*Das Gehen in Achsamkeit und Bewußtheit)