Nằm sâu hút trong những cánh rừng bạt ngàn với các dãy núi đá cao ngất, nơi chỉ có gió, núi, thú hoang và những tán cây rừng, bản Hoo, thôn A Năm, xã Hồng Vân, huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế) là một thung lũng nằm dưới chân núi A Noong- một nơi gần như biệt lập, "lãng quên” trước phố thị A Lưới ồn ào, náo nhiệt.
Ngô, sắn là nguồn lương thực chính của bà con bản Hoo
Hành trình vượt núi
Trong một chuyến công tác tại huyện miền núi A Lưới, chúng tôi có dịp cùng bà con dân bản băng đèo, lội suối đến với bản Hoo, là nơi canh tác, trồng trọt của đồng bào Pakô, Pahi, Cơ Tu, Tà Ôi,… Khác hẳn với những căn nhà sàn vững chãi, những tuyến đường tráng nhựa thẳng tắp chạy dọc theo con đường Trường Sơn công nghiệp hóa, bản Hoo nằm khá biệt lập với bên ngoài. Đến mùa xuống giống, bà con thôn A Năm lũ lượt kéo vào bản Hoo gieo xuống những hạt mầm của sự sống, là nguồn lương thực chính cho bản làng trải qua mùa giáp hạt.
5 giờ sáng, đoàn chúng tôi có mặt tại ngã ba thôn A Năm. Bác trưởng thôn đã cao tuổi, không thể đi cùng, nên mọi người phải đợi ở đây từ sớm để kịp cùng bà con bắt đầu chuyến hành trình vào Hoo. Chị Hồ Thị Chúc, một người cùng trên chuyến vào Hoo làm rẫy cho biết: "Vào Hoo xa lắm, phải vượt qua dãy núi A Noong này, thêm chừng vài chục khe suối nữa, mất khoảng 3 tiếng mới đến nơi.” Một anh bạn trong đoàn chúng tôi lại nói đùa rằng, đồng bào nói đi khoảng 3 tiếng, e rằng mình phải mất gần 6 tiếng mới đến nơi. Bởi cái "khái niệm” về thời gian của đồng bào nó khác lắm!
Con đường mòn dẫn vào thung lũng Hoo cũng hiểm trở không kém. Mặt đường có nơi rộng chưa đến nửa mét, một bên là vách núi đá chênh vênh, bên kia là vực sâu hàng chục mét, lởm chởm đá suối. Có những đoạn dốc cheo leo, bà con phải đóng từng hàng cọc cây để bám víu. Người dân cho biết: Vào mùa lũ, con đường mòn vốn đã hiểm trở này càng trở nên hung dữ hơn. Thường thì người dân thôn A Năm ít đi vào Hoo khi nước lớn. Tuy nhiên, vì cuộc sống mưu sinh, vì thiếu lương thực, nhiều người đành mạo hiểm với tử thần, vượt núi A Noong vào bản Hoo để gùi những củ khoai, củ sắn, bắp ngô còn chưa kịp thu hoạch. Và, cũng không ít người đã vĩnh viễn nằm lại với núi rừng xa xôi này.
Vượt được con dốc "mạ ơi, mệ ơi” (nơi đồng bào chỉ dốc cao, người leo dốc mệt), chân tôi như không thể bước thêm được nữa. Nhìn tôi, chị Chúc nhoẻn miệng cười. Giữa núi rừng, chợt thấy nụ cười cô thôn nữ đẹp lạ thường! Đường lên Hoo rải rác có một vài cây hoa trẫu. Loài hoa cánh trắng, nhụy vàng, theo đồng bào ở đây, hoa trẫu mang lại sự bình yên cho họ. Đúng như dự đoán, cả đoàn đặt chân đến nương Hoo đã quá trưa. Gặp chúng tôi, anh Hồ Văn Sam - một người dân canh tác ở bản Hoo cho biết: "Mình mang ngô giống vào để chuẩn bị gieo. Đất ở đây tốt lắm, nên dù xa mấy dân bản A Năm vẫn vào canh tác. Những người trẻ thì vào với Hoo, làm vài ngày rồi trở ra. Còn người già thì "kẹt” mãi ở đây, họ dựng nhà sàn, trồng rau quả, lúa để sinh sống. Mai mốt mình già rồi, con mình sẽ thay mình vào với Hoo, mình sẽ ở lại trong đó chăm nom ruộng vườn.”
Trường học còn xa
Qua khỏi dãy núi A Noong, trước mặt chúng tôi bây giờ là thung lũng nằm chênh vênh tựa vào dãy núi đá, giữa những tán rừng heo hút nơi đại ngàn. Nhìn từ xa, bản Hoo nằm yên bình, xinh đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Từng thửa ruộng, nương ngô, bãi sắn,… đang đầu mùa xuống giống, xanh non mơn mởn. Đến Hoo, dân bản đã vội bắt tay ngay vào công việc nương rẫy. Vừa bỏ gùi xuống khỏi vai, uống vội ngụm nước, chị Hồ Thị Chúc tiếp tục làm cỏ rẫy ngô còn dở dang từ đợt trước. Chị cho biết: Năm nay gia đình mình làm rẫy gần 3 hecta. Trong đó ngô, sắn là phần nhiều, còn lại trồng các loại rau màu, mía. Ruộng nước thì trồng ít, vì nước rất hiếm. Không riêng gì rẫy của chị Chúc mà cả hàng trăm hecta đất ở thung lũng Hoo đều trồng sắn và ngô là chủ yếu. So với phần đất nhỏ hẹp khô cằn gần đường cái, bên kia ngọn A Noong thì ở đây, đất đai rất màu mỡ. Người dân chỉ làm cỏ, gieo hạt và thu hoạch. Dù không có phân bón nhưng hoa màu khá xanh tốt. Thung lũng Hoo đã nuôi lớn biết bao thế hệ con em dân bản A Năm.
Dù nương rẫy mặc dù được thiên nhiên ưu đãi, đất đai phì nhiêu, nhưng đời sống của bà con vẫn còn lắm vất vả. Bản Hoo gần như tách biệt với cuộc sống bên ngoài, thiếu nước sạch, cái ăn, cái mặc trông cả vào nương rẫy, vào con cá, con ốc ven suối. Công cụ sản xuất lại thô sơ, cây trồng không được chăm bón đúng kỹ thuật nên lúa rẫy, nương ngô thu hoạch không được bao nhiêu, hết mùa là hết gạo.
Lán trại của chị Chúc nằm tận trên sườn núi. Chị lại dẫn tôi tiếp tục trèo lên cái dốc thẳng đứng có những bậc đất nhỏ để vào trại. Bữa cơm tối của hai vợ chồng chị là một lon gạo, quả đu đủ kho muối và mấy con cá khô chị mua từ thị trấn vào. Chị nói: "Mình vào ra Hoo thường xuyên nên mua được cá là nhất rồi. Bà con định cư ở đây thì ăn cơm, sắn, với rau màu. Người đồng bào vùng núi thường ăn uống rất nhạt bởi gia vị ở đây hiếm lắm”.
Nhìn những bữa cơm đạm bạc, chúng tôi không nghĩ dân bản A Năm có đủ sức để băng rừng, lội suối, dốc sức trên nương rẫy. Ấy thế mà đã qua bao nhiêu thế hệ, thung lũng Hoo vẫn tiếp tục xanh tốt chính nhờ những đôi bàn tay cần cù, chịu khó này. Khi hỏi đến ước mơ của mình, dân bản A Năm chỉ mong con đường đến nương Hoo bớt hiểm trở, có cái trường cho tụi nhỏ xóa mù. Chỉ có vậy đời sống của bà con mới khấm khá lên được. Canh tác không biết bao mùa rẫy nơi bản Hoo, già Hồ Thị Liên tâm sự: "Làm thì nông sản cũng có nhưng đường ra xa quá. Cõng lương thực từ đây xuống thị trấn phải mất 2 ngày đường đi bộ, bà con không làm nổi. Có con đường thì dân bản mình sẽ bớt khổ biết mấy.”
Đêm đến, chúng tôi tá túc trong lán trại chật hẹp của bà con. Những cơn mưa rừng Trường Sơn rậm rịch lẫn lộn trong các thanh âm mới lạ nơi vùng núi biệt lập vọng lại, lúc rờn rợn, khi thánh thót. Cơn mưa dông Trường Sơn vào cuối tháng 4 sẽ là nguồn nước tưới cho rẫy ngô non đầu mùa. Chúng tôi chợt nghĩ đến con đường mòn xa ngái ngày về sẽ lầy lội biết mấy. Không biết mai này những đứa trẻ bản Hoo sẽ theo mẹ đến ngôi trường mới, hạnh phúc hay cuộc đời bọn trẻ mãi mãi chỉ ở lại trong thung lũng này.
Nguồn Đại Đoàn Kết
NGUYỄN THẾ
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần đã sản sinh trong đời sống, quá trình lao động và sáng tạo của đồng bào dân tộc cư trú từ vùng Tây Bắc trải dài dọc Trường Sơn đến tận cùng phía Nam của tổ quốc.
PHONG LÊ
Bốn tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình, 25 triệu người dân Việt Nam bước vào năm 1946, năm mở đầu kỷ nguyên Dân chủ - Cộng hòa, bằng một sự kiện vang động lịch sử: Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước, vào ngày 6/1/1946.
VÕ VINH QUANG
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Phò mã Nguyễn Văn Thuyên, con trai của Nguyễn Văn Thành, làm thơ ngông bị tố, bị bắt và bị tra khảo.
NGUYỄN DUY TỜ
1.
Không phải đến tận năm 1805, ở tuổi 41, được triều đình nhà Nguyễn bổ chức Đông Các học sĩ, trao cho tước Du Đức hầu, Nguyễn Du mới vào Huế.
PHẠM XUÂN DŨNG
Từ một hòn đảo hoang vu chưa được nhiều người biết đến, bỗng một ngày đầu thế kỷ 20, Phú Quý được cả người trong nước lẫn người Phú-lãng-sa (Pháp) phải chú ý đến mảnh đất này.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Vì một chữ Liêm
Cuộc đời làm tướng của Nguyễn Tri Phương ít khi ông được sống với gia đình. Không chinh Nam thì phạt Bắc. Quanh năm rong ruỗi không ngừng.
TA DƯR TƯ
Trong các nghi lễ vòng đời, lễ cưới, hỏi được xem là lễ quan trọng nhất và trang trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người Pa cô.
ĐINH VĂN TUẤN
Vào năm 1802 chúa Nguyễn Phúc Ánh chiến thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long.
NGUYỄN ĐÌNH ĐÍNH - VÕ VINH QUANG
Năm 1790 có một sự kiện ngoại giao tốn nhiều giấy mực, tâm sức của những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà giai đoạn Tây Sơn, mà chính sử triều Nguyễn gọi: Giả vương nhập cận.
PHAN THUẬN AN
Không có tư liệu thì không có lịch sử. Nhưng, nếu có tư liệu mà tư liệu thiếu sót, bất nhất và không chắt lọc kỹ thì cũng dễ dẫn đến chỗ nhầm lẫn khi viết lại quá khứ.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Đình làng Phú Xuân từng được các triều vua Nguyễn “quan tâm đặc biệt” và nay được cấp bằng di tích lịch sử quốc gia. Ở đình, dân làng Phú Xuân thờ một số thiên thần, nhân thần như các làng ở Thuận Hóa, ngoài ra còn thờ một số nhân thần bổn thổ là những nhân vật lịch sử thuộc triều Lê, triều Tây Sơn và triều Nguyễn.
VÕ VINH QUANG
LTS: Từ lâu, việc giải mã nơi đặt lăng mộ Hoàng đế Quang Trung, cung điện Đan Dương là những vấn đề khoa học được giới nghiên cứu trong nước chú ý tìm tòi. Tuy nhiên, tất cả các công việc chỉ nằm trên những bài viết, chưa có sự khảo sát thực địa, khai quật để hiển lộ những kiến giải và cả nghi ngờ.
LÊ QUANG THÁI
Nội dung của bài này chỉ nhằm khiêm tốn khơi gợi lại một số di tích tại chốn kinh sư liên quan đến các nhân vật lịch sử, làng xã, chùa quán mà nhà văn lớn Hà Đình Nguyễn Thuật đã ưu ái dành nhiều cảm xúc quan tâm trong sáng tác thơ văn.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Thời gian gần đây các học giả, các nhà nghiên cứu đã bước đầu đánh giá, nhìn nhận lại công lao của các chúa Nguyễn đối với dân tộc, làm sáng vai trò của các chúa Nguyễn trong sự nghiệp mở mang đất nước vào thế kỷ 17, 18.
HUỆ VIÊN
Ngày nay, quá trình đô thị hóa trên toàn thế giới đang diễn ra với tốc độ chóng mặt. Nếu như năm 1800 có 29,3 triệu người sống ở các đô thị (chiếm 3,2% tổng số dân thế giới) thì con số này vào năm 2000 là 3,35 tỉ người (chiếm 51%), dự báo đến năm 2025 là 5,2 tỉ (chiếm 61%).
THÁI DOÃN HIỂU
Hương thơm của đức hạnh và tiếng tăm tài ba vị Trạng nguyên tân khoa Mạc Đĩnh Chi vang sang tận thiên triều. Vua tôi nhà Nguyên ở Yên Kinh xôn xao muốn thử tài xem hư thực ra sao liền gửi thông điệp cho vua nhà Trần yêu cầu cử đích danh Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Quốc.
TRẦN QUỐC VƯỢNG
Hà Nội âm trầm rồi ào ạt chuẩn bị kỷ niệm 200 năm chiến thắng - Đống Đa, Xuân Lửa diệu kỳ Kỷ Dậu 1789 mà giới quân sự học hiện đại có thể gọi là Chiến dịch Thăng Long, giải phóng kinh thành, miền Bắc...
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Nhân theo vua Cảnh Thịnh đi thăm lăng vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm có làm một bài thơ (1) với lời chú thích rất lạ, như thế này: