Chuyện về Nguyễn Tri Phương và Tự Đức

15:36 12/04/2018

NGUYỄN ĐẮC XUÂN

Vì một chữ Liêm

Cuộc đời làm tướng của Nguyễn Tri Phương ít khi ông được sống với gia đình. Không chinh Nam thì phạt Bắc. Quanh năm rong ruỗi không ngừng.

Ảnh: internet

Vào những năm cuối đời Thiệu Trị (1841-1847), Nguyễn Tri Phương sang tận đất Căm-pốt. Vì ở xa lâu ngày, ông có đem theo một bà thiếp để giúp đỡ lo chuyện cơm nước, khăn áo cho ông. Sống trên đất khách quê người có được một người thiếp bên cạnh như thế thật có ý nghĩa. Ông quý bà thiếp vô cùng.

Rồi một hôm, ông đi lo việc binh về thấy trong nhà có một thúng đậu khấu(1). Lấy làm lạ ông bèn đổ thúng đậu khấu ra xem và hỡi ôi, thấy dưới thúng đậu xếp toàn vàng lá. Ông hỏi bà thiếp:

- Thúng đậu nầy ở đâu ra?

Bà thiếp đáp:

- Của một người Căm-pốt đem đến biếu. Tôi từ chối, người ấy năn nỉ quá tôi đành phải nhận, nhưng tôi không biết ở dưới đáy thúng có vàng!

Ông nói:

- Khi không mà người ta đem vàng đến biếu mình thì, nếu họ không bẫy mình vào cái trật của một vị quan tham thì họ cũng sẽ nhờ mình làm một việc gì đó. Cái việc xứng đáng với một thúng vàng hẳn là một việc ít ai làm được, một việc thất nhơn ác đức... chỉ có tôi - người có quyền uy nhất ở đây mới làm được! Vậy phải tìm người ấy và đem trả thúng vàng ngay!

Nói xong ông cho lính khiêng thúng vàng đi trả cho khổ chủ của nó. Khi bọn lính trở về đến doanh trại của ông, ông bảo:

- Quân bay chuẩn bị đưa bà về nước!

Bọn lính ngạc nhiên, vì sao ông lại đưa một người thân thiết như thế về nước! Chúng khó hiểu đến ngơ ngác. Ông bảo:

- Chữ Liêm chỉ có thể giữ được trong hoàn cảnh độc thân.

Bọn lính hiểu ý ông, cúi đầu làm nhiệm vụ.

(Theo lời kể của ông NTB)



Cha con gặp nhau giữa ngày nước lụt

Năm ấy nước lụt tràn vô làng Chí Long sớm hơn thường lệ, lúa má trong làng xem như mất sạch. Dân đói kêu trời không thấu. Ông cả Ngạc cho rằng mình phải có trách nhiệm cứu dân, nhưng với hai bàn tay trắng lấy gì mà cứu. Nghĩ mãi ông mới hạ quyết tâm chống ghe vào Kinh xin cụ thân sinh là Nguyễn Tri Phương chút đỉnh tiền để cứu dân.

Lênh đênh trên cánh đồng nước trắng, không biết đâu là bờ. Khó nhọc lắm ông mới vào đến được Kinh. Lúc ấy đã đến giờ Tý (nửa đêm). Neo ghe lại ở ngoài thành, ông cả Ngạc bì bỏm lội vào Lục Bộ. Khi đến được bộ Binh, thấy cụ Nguyễn Tri Phương đang ngồi chống tay xem sách, ông Ngạc mừng quá đấm cửa gọi cha. Thấy con vào trong cặp quần áo ướt mèm, cụ Nguyễn Tri Phương hỏi:

- Nước lụt sao con lại vào đây?

Ông cả Ngạc từ tốn thưa:

- Con vào đây trước là thăm cha, sau là xin cha chút đỉnh để cứu dân. Lụt lội làm cho dân Đường Long đói lắm!

Cụ Nguyễn Tri Phương cau mày đau đớn. Cụ đặt sách xuống bàn và mở nắp cái tráp trước mặt, nói:

- Cha có một quý lương mới lãnh đây. Cho con đem về cứu dân.

Ông cả Ngạc:

- Cho hết lương cha lấy gì ăn? Thôi con chỉ xin một nửa là quý lắm rồi!

Cụ Nguyễn Tri Phương giục:

- Con cứ lấy hết mà lo cho dân, việc của cha, cha tính sau. Mình thiếu mình đi mượn được, chớ dân đói giữa cánh đồng nước trắng biết mượn nơi mô! Thôi con về đi!

Ông cả Ngạc cầm tiền quay lưng về. Hai cha con chỉ gặp nhau có mười lăm phút vào lúc nửa đêm.

(Theo NTB)


Bài thơ bắt ếch của vua Tự Đức

Quan lại dưới triều Tự Đức đa số là những người xuất thân khoa bảng, không hoàng giáp, thám hoa thì cũng tiến sĩ, phó bảng. Các cụ tự hào về sự học vấn uyên thâm của mình. Vua Tự Đức là một nhà thơ tài ba và lại rất khiêm tốn, ông luôn luôn khuyên nhủ các quan hay chữ không được tự kiêu tự mãn.

Một hôm sau buổi chầu nhà vua cho các quan ngồi chung quanh và phát cho mỗi người một xấp giấy, một cây bút và một nghiên mực, ông bảo:

- Các khanh là những người hay chữ hãy chép hộ cho trẫm một bài tứ tuyệt. Nếu ai chép đúng hết sẽ được ban thưởng xứng đáng!

Các quan lấy làm khó chịu, họ nghĩ "Nếu nhà vua không xem họ là con nít, thì nhà vua là một đứa trẻ nít". Thật kỳ dị. Các quan nhìn nhau không dám nói nên lời. Vua Tự Đức biết thế, ông cũng làm thinh. Khi thị vệ phát giấy bút xong, vua Tự Đức đọc ngay câu đầu: Các quan ngước nhìn ướm hỏi đầu đề bài thơ, vua Tự Đức giả đò quên, nhà vua cứ thế đọc tiếp cho xong bài thơ như sau:

Lâm vũ lâm ly lý lý đường
Minh minh bỉnh chúc chiếu âm dương
Trì khu thường há công danh quán
Khứ thủ ly bì đắc kỷ cương
.

Các quan vừa nghe từng câu hiểu nghĩa là bài thơ nói chuyện anh hùng nên liến thoắng viết rồi tranh nhau đem nạp cho vua xem. Đọc các bản chép vua Tự Đức cười ngặt nghẽo. Bởi lẽ các quan nghe những chữ lâm vũ tưởng nghĩa là lâm trận (võ), lý lý đường tưởng là nhà Lý, nhà Đường ngày xưa. Trì khu viết chữ trì khu là cao thấp, vất vả. Công danh tưởng là công danh sự nghiệp. Kỷ cương tưởng là kỷ cương triều đình. Chữ âm dương là khí âm, khí dương chỉ rõ tính cách chủ tác hào hùng. Tưởng như thế cho nên có ông đại khoa đều viết trật cả 17 chữ ấy. Một ông Tam Nguyên mà viết trật đến 14 chữ của một bài thơ chỉ có 28 chữ.

Vua Tự Đức đọc cả mấy chục bài, bài nào cũng trật cả, nhà vua không nhịn được cười. Các quan thẹn đỏ mặt.

Cuối cùng vua Tự Đức lấy bút son viết toàn bài như sau:



Nhà vua giải thích:

- Đầu đề bài thơ Đi Bắt Ếch, câu 1 có nghĩa: Mưa dầm khiến đường lầy lội trong bụi mận, câu 2: Cầm đuốc soi vào những chỗ có tiếng kêu ộp ộp, câu 3: Soi lên soi xuống khắp các khu đất đánh được đầy xâu, câu 4: Đem về chặt đầu lột da, được mấy niêu nhỉ?

Ông H.N dịch thành bài tứ tuyệt:

Mưa dầm lầy lội bụi cây mơ
Ngọn đuốc soi quanh mọi cõi bờ
Ỳ ọp cùng nơi: xâu khá lớn
Chặt đầu lột xác: mấy niêu kho
?

Nghe xong nghĩa chữ và dịch Nôm, các quan mới bật ngửa ra. Bấy giờ họ mới hiểu điều thâm thúy nhà vua muốn nhắc nhủ họ phải khiêm tốn, không được tự mãn mình là người hay chữ, tự cho mình biết hết mọi lẽ trên đời.

N.Đ.X
(Giai thoại văn chương xứ Huế)
(TCSH44/01-1991)

--------------
(1) Cây họ gừng, thân rễ to bằng ngón tay, gốc bẹt, lá dài, quả hình trứng, dùng làm thuốc và gia vị.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN THẾ

    Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần đã sản sinh trong đời sống, quá trình lao động và sáng tạo của đồng bào dân tộc cư trú từ vùng Tây Bắc trải dài dọc Trường Sơn đến tận cùng phía Nam của tổ quốc.

  • PHONG LÊ   

    Bốn tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình, 25 triệu người dân Việt Nam bước vào năm 1946, năm mở đầu kỷ nguyên Dân chủ - Cộng hòa, bằng một sự kiện vang động lịch sử: Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước, vào ngày 6/1/1946.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Phò mã Nguyễn Văn Thuyên, con trai của Nguyễn Văn Thành, làm thơ ngông bị tố, bị bắt và bị tra khảo.

  • NGUYỄN DUY TỜ    

    1.
    Không phải đến tận năm 1805, ở tuổi 41, được triều đình nhà Nguyễn bổ chức Đông Các học sĩ, trao cho tước Du Đức hầu, Nguyễn Du mới vào Huế.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Từ một hòn đảo hoang vu chưa được nhiều người biết đến, bỗng một ngày đầu thế kỷ 20, Phú Quý được cả người trong nước lẫn người Phú-lãng-sa (Pháp) phải chú ý đến mảnh đất này.

  • TA DƯR TƯ

    Trong các nghi lễ vòng đời, lễ cưới, hỏi được xem là lễ quan trọng nhất và trang trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người Pa cô.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Vào năm 1802 chúa Nguyễn Phúc Ánh chiến thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long.

  • NGUYỄN ĐÌNH ĐÍNH - VÕ VINH QUANG

    Năm 1790 có một sự kiện ngoại giao tốn nhiều giấy mực, tâm sức của những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà giai đoạn Tây Sơn, mà chính sử triều Nguyễn gọi: Giả vương nhập cận.

  • PHAN THUẬN AN

    Không có tư liệu thì không có lịch sử. Nhưng, nếu có tư liệu mà tư liệu thiếu sót, bất nhất và không chắt lọc kỹ thì cũng dễ dẫn đến chỗ nhầm lẫn khi viết lại quá khứ.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Đình làng Phú Xuân từng được các triều vua Nguyễn “quan tâm đặc biệt” và nay được cấp bằng di tích lịch sử quốc gia. Ở đình, dân làng Phú Xuân thờ một số thiên thần, nhân thần như các làng ở Thuận Hóa, ngoài ra còn thờ một số nhân thần bổn thổ là những nhân vật lịch sử thuộc triều Lê, triều Tây Sơn và triều Nguyễn.

  • VÕ VINH QUANG

    LTS: Từ lâu, việc giải mã nơi đặt lăng mộ Hoàng đế Quang Trung, cung điện Đan Dương là những vấn đề khoa học được giới nghiên cứu trong nước chú ý tìm tòi. Tuy nhiên, tất cả các công việc chỉ nằm trên những bài viết, chưa có sự khảo sát thực địa, khai quật để hiển lộ những kiến giải và cả nghi ngờ.

  • LÊ QUANG THÁI

    Nội dung của bài này chỉ nhằm khiêm tốn khơi gợi lại một số di tích tại chốn kinh sư liên quan đến các nhân vật lịch sử, làng xã, chùa quán mà nhà văn lớn Hà Đình Nguyễn Thuật đã ưu ái dành nhiều cảm xúc quan tâm trong sáng tác thơ văn.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Thời gian gần đây các học giả, các nhà nghiên cứu đã bước đầu đánh giá, nhìn nhận lại công lao của các chúa Nguyễn đối với dân tộc, làm sáng vai trò của các chúa Nguyễn trong sự nghiệp mở mang đất nước vào thế kỷ 17, 18.

  • HUỆ VIÊN 

    Ngày nay, quá trình đô thị hóa trên toàn thế giới đang diễn ra với tốc độ chóng mặt. Nếu như năm 1800 có 29,3 triệu người sống ở các đô thị (chiếm 3,2% tổng số dân thế giới) thì con số này vào năm 2000 là 3,35 tỉ người (chiếm 51%), dự báo đến năm 2025 là 5,2 tỉ (chiếm 61%).

  • THÁI DOÃN HIỂU 

    Hương thơm của đức hạnh và tiếng tăm tài ba vị Trạng nguyên tân khoa Mạc Đĩnh Chi vang sang tận thiên triều. Vua tôi nhà Nguyên ở Yên Kinh xôn xao muốn thử tài xem hư thực ra sao liền gửi thông điệp cho vua nhà Trần yêu cầu cử đích danh Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Quốc.

  • TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Hà Nội âm trầm rồi ào ạt chuẩn bị kỷ niệm 200 năm chiến thắng - Đống Đa, Xuân Lửa diệu kỳ Kỷ Dậu 1789 mà giới quân sự học hiện đại có thể gọi là Chiến dịch Thăng Long, giải phóng kinh thành, miền Bắc...

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

    Nhân theo vua Cảnh Thịnh đi thăm lăng vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm có làm một bài thơ (1) với lời chú thích rất lạ, như thế này:

  • Huyền Trân công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ, trái khoáy với Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung. Bài viết của chúng tôi, xuất phát từ việc phân tích các nguồn sử liệu và kế thừa các ý kiến của người đi trước, sẽ thảo luận về những điểm không logic trong những sự kiện được ghi lại về nhân vật lịch sử này.