Lễ cưới hỏi trong nghi lễ vòng đời của người Pa cô

14:36 23/03/2018

TA DƯR TƯ

Trong các nghi lễ vòng đời, lễ cưới, hỏi được xem là lễ quan trọng nhất và trang trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người Pa cô.

Cô dâu chú rễ Pa Cô

Ông, bà, cha, mẹ, anh, chị em trong nhà và họ tộc như một vòng tuần hoàn cuộc đời, họ đã chăm lo cho nhau, thể hiện tình yêu thương và bổn phận trách nhiệm cho mỗi thành viên gia đình, họ tộc. Nghi lễ vòng đời là một nghi lễ mang giá trị tinh hoa, nhân cách, giá trị nhân văn, dấu ấn sâu sắc của cuộc con người từ khi sinh ra cho đến phút lìa đời, con người lại quay về đoàn tụ với tổ tiên.

Từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến khi sang thế giới bên kia gặp lại tổ tiên mình, người Pa cô nói riêng và các dân tộc thiểu số huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế khác nói chung phải trải qua những nghi lễ nhất định theo tập tục, truyền thống, những nghi lễ vòng đời để thể hiện sự nâng niu, trân trọng giá trị hình hài, hồn vía mà các vị giàng, thần linh ban tặng, cầu mong con người sinh ra, lớn lên được khỏe mạnh, may mắn và trường thọ. Vì vậy, nghi lễ vòng đời của người Pa cô thể hiện sự chặt chẽ, trình tự, cung kính, như đi lên từng bậc thang vậy: Pai a moot: (Lễ gia nhập thành viên mới của gia đình, sau khi rụng rốn); Tực giàng Cơt (Lễ tạ ơn vị thần Cợt đã ban tặng đứa con, sau khi đứa con đã được 1 tháng tuổi); Pa choo âr vai, Kroc âr vai (Lễ gọi hồn khi ốm đau, gặp nạn trong suốt đường đời); Pai a ngôh (Lễ xuất gia khi con gái đi lấy chồng); Zoon, pooi akay (Lễ cưới, hỏi cho con trai, con gái); Pai a moot (Lễ nhập gia khi cưới con dâu về); Pa xâr âr vai, rưp, xỉa (Lễ tiễn linh hồn lên trời và đám tang bằng tiếng trống chiêng ấm áp tình người khi con người qua đời); Pa door âng hang (Lễ cải táng) để một lần nữa linh hồn người quá cố được siêu thoát trong bộ xương cốt sạch sẽ khô ráo, người còn sống được thanh thản lương tâm vì đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm chăm lo cho một vòng đời người.

Vì sao lại có các nghi lễ vòng đời? Cũng như bao dân tộc khác, người Pa cô quan niệm rằng: Con người là do Âr bang (Giàng trời), Ku tiek (Giàng đất) ban tặng… A Bum là vị thần được giàng trời, đất giao trách nhiệm việc mài nhẵn hình hài con người và cân đối giới tính, giàng Cợt được giao quản lý sinh mạng, hồn, vía con người, ai có được đứa con là do giàng Cợt tâu trời, đất ban cho đứa con, nếu con người lớn lên khỏe mạnh gặp nhiều may mắn trong đường đời là do giàng Cợt bảo vệ, che chở; còn những ai không có đứa con là giàng Cợt không tâu trời, đất, hay sinh con ra luôn ốm đau bệnh tật là do giàng Cợt không bảo vệ, che chở. Bởi vậy, người Pa cô rất coi trọng các nghi lễ vòng đời mong muốn con người được sinh sôi nảy nở, con người được khỏe mạnh, hạnh phúc, những nghi lễ này luôn tồn tại cho đến ngày nay.

Trong các nghi lễ vòng đời, lễ cưới, hỏi được xem là nghi lễ quan trọng nhất, bởi họ quan niệm rằng: “Đời người chỉ có một lần” nên người Pa cô rất coi trọng. Đối với người Pa cô, khi con trai, con gái đã đến tuổi dựng vợ gả chồng, người cha, người mẹ, anh em họ tộc bắt đầu chuẩn bị các lễ vật truyền thống… Đối với con trai thì cần có: tiền, vàng, bạc, cườm, bò, heo, áo quần, thau, chiếu… Đối với con gái thì cần các lễ vật như: Dèng, chiếu A lơơq, gạo đặc sản các loại, gà, vịt, cá; về số lượng, trọng lượng thì tùy theo điều kiện của mỗi gia đình. Theo truyền thống để lại, con trai hay con gái sau một thời gian tìm hiểu yêu đương và quyết định tiến tới hôn nhân phải có trách nhiệm làm lễ báo cáo cho hai bên gia đình, nhà trai, hay nhà gái trước tùy theo đôi trẻ lựa chọn. Trong lễ cưới gồm có các bước sau:

Lễ Y py a đâ a, y a, ăm (Lễ báo cáo cho bố, mẹ). Đây là nghi lễ thể hiện sự kính trọng lễ phép của con cái đối với bậc sinh thành, báo cáo để bố mẹ biết đứa con của mình đã có sự quyết định trong hôn nhân và để biết chuẩn bị các lễ vật liên quan đến việc cưới hỏi của con sau này.

Lễ Pôôc xeeq (Đám hỏi). Đây là nghi lễ mang tính quyết định, để đôi trẻ tiến tới hôn nhân, 2 bên gia đình kết tình thông gia, nhà trai mang theo lễ vật như: tiền, vàng, bạc, hạt mã não, số lượng tùy theo điều kiện; nhà gái chuẩn bị sẵn một mâm cơm thân mật đón nhà trai và một tấm Dèng để nhận lời. Sau khi vào nhà rồi, nhà trai ra mắt nhà gái bằng cách dọn ra mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn; trong mâm chỉ có thịt heo hoặc trâu, bò, dê và rượu. Nhà trai phải mời nhà gái dùng mâm cỗ trước khi thưa chuyện. Để thể hiện phép lịch sự, đại diện bên nhà gái mở lời trước cho nhà trai thưa chuyện; đại diện nhà trai bắt đầu thưa chuyện… và trao cho đại diện nhà gái lễ vật xin phép nhà gái gả con gái cho nhà trai, ướm hỏi nhà gái đồng ý không? Nhà trai trao lễ vật cho cô con dâu, lễ vật này giá trị lớn hơn lễ vật chạm ngõ; nhà gái nhận lời và báo cho nhà trai biết và chuẩn bị các lễ vật liên quan bắt buộc đến phong tục tập quán. Nhà trai nhận lời. Cuối cùng là hai bên nhà trai nhà gái ấn định thời gian cho lễ cưới chính thức. Sau khi mọi việc xong xuôi, nhà gái mới dọn ra mâm cỗ để tiếp đãi nhà trai.

Một tuần sau khi lễ hỏi diễn ra họ mới tổ chức lễ cưới chính thức. Ở người Pa cô, lễ cưới gồm có 2 bước. Bước 1: Pôôc đooq (Đám cưới tại nhà trai). Bước 2: Pa liah, a leq kâr mai (Đám cưới nhà gái).

Bước 1: Pôôc đooq (Đám cưới tại nhà trai).

Sáng sớm trước khi đưa con gái về nhà chồng, chủ nhà gái làm nghi lễ Pai a ngôh (Xuất gia) và báo cho tổ tiên biết là cháu gái đã đi lấy chồng, mong tổ tiên phù hộ cho sức khỏe, hạnh phúc và gặp nhiều may mắn.

Nhà gái mang theo một số lễ vật đại diện như: dèng, gà luộc, gói xôi, số lượng tùy theo điều kiện của gia đình để tiễn con về nhà chồng; ngoài ra, khi về nhà chồng, cô dâu choàng thêm bên ngoài một tấm dèng gọi là Pâr lang để tránh những điều xui xẻo trên đường về nhà chồng.

Mẹ chồng chờ sẵn tại cổng nhà để đón con dâu, đồng thời cởi luôn tấm dèng Pâr lang từ cô dâu và đeo cho cô dâu chuỗi cườm để đón nhận con dâu.

Khi nhà gái vào nhà, nhà trai tiến hành làm lễ Pâr xool (Nhận thông gia), từ nay hai bên gia đình trở thành thông gia, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn và lễ vật đại diện mà nhà gái mang theo cũng được trao luôn cho nhà trai trong nghi lễ này.

Sau khi nhà gái thưởng thức bữa tiệc đặc biệt được tiếp đón, nhà trai tiếp tục thực hiện một nghi quan trọng nhất trong ngày cưới, đó là nghi lễ Pâr choo, Târ lêh (Tiễn khách, trao lễ vật và của hồi môn). Người Pa cô tiến bộ ngày nay không còn tục thách cưới như ngày xưa nữa, nhà trai cho được của hồi môn bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, nhưng riêng lễ vật liên quan đến phong tục tập quán thì bắt buộc nhà trai lo cho bằng được theo số lượng quy định, còn trọng lượng thì tùy theo điều kiện. Nghi thức tiễn khách và trao của hồi môn cho nhà gái được nhà trai thực hiện trình tự:

- Trao cho bố, mẹ cô dâu để tạ ơn công sinh thành dưỡng dục đứa con gái lớn khôn ngoan hiền. Trao cho anh, chị cả cô dâu là để gửi gắm quan tâm chăm sóc, thăm nom, dạy bảo em gái thường xuyên những khi ốm đau hay khỏe mạnh. Trao cho chủ họ để tạ ơn đã lo lắng, đỡ đần cả vật chất lẫn tinh thần cho nhà thông gia trong việc cưới hỏi.

Sau nghi thức trao của hồi môn thì lễ cưới Bước 1 kết thúc. Nhà gái định thời gian để tổ chức bước lễ cưới thứ 2 tại nhà gái.

Đêm đầu tiên con dâu về nhà chồng, cha mẹ chồng thực hiện nghi thức Pa tưưp a đeh, pa cha đooi. Đôi vợ chồng mới cưới ngồi ăn chung một chén cơm nếp để cầu mong đôi vợ chồng mãi mãi hạnh phúc đến đầu bạc răng long, cầu mong cho đôi trẻ tình cảm mặn nồng, hạnh phúc bền lâu, sinh con đẻ cái khỏe mạnh và cuộc sống tốt đẹp hơn, từ nay vợ chồng mới cưới được phép làm vợ làm chồng chính thức. Sau đó là đến nghi lễ Pa tăm Pâr lang trong vòng ba ngày kiêng cự không cho cô dâu ra ngoài chỉ ở xung quanh nhà, để tránh người xấu chọc gẹo, dèm pha…

Bước 2: Pa liah, a leq kâr mai (Đám cưới nhà gái).

Một tuần sau lễ cưới đầu tiên tại nhà trai, để hai gia đình được thuận lợi trong việc qua lại thăm nom nhau mà không phải kiêng cự nữa, nhà gái lại tiến hành tổ chức lễ cưới tại nhà gái, người Pa cô gọi là lễ Pa liah a kay hay còn gọi A leq kâr mai.

Đến dự lễ cưới tại nhà gái, nhà trai chuẩn bị lễ vật và hồi môn khá tươm tất để thể hiện sự tôn trọng đối với nhà gái và lòng tự trọng của nhà trai, vì vậy, họ thường khiêng theo 1 con heo to và kèm theo của hồi môn khác.

Trong lễ cưới này, người đi vào đầu tiên phải là cô dâu; cô dâu mang theo một chiếc đũa bếp, vừa lên cầu thang đồng thời thả chiếc đũa đó xuống dưới cầu thang, có nghĩa rằng từ nay con gái và con rể mới được phép vào nhà bố mẹ, muốn lui tới, thăm nom cha mẹ thì không còn kiêng cự nữa.

Tương tự như lễ cưới tại nhà trai, khi nhà trai vào nhà, nhà gái tiến hành làm lễ gọi Pâr xool (Nhận thông gia). Từ nay hai bên gia đình trở thành thông gia, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn, nhà trai trao cho nhà gái con heo để làm thịt chuẩn bị cho nghi thức tiếp theo.

Sau khi bên nhà trai đã dự bữa tiệc thịnh soạn được nhà gái tiếp đón, nhà gái thực hiện nghi thức đặc biệt dành cho nhà trai, đó là nghi thức Pa dưưn Khơi, nghi thức này nhằm thể hiện sự đối đãi, quý trọng rể quý và nhà thông gia.

Tiếp đến là nghi thức quan trọng nhất trong ngày cưới, đó là nghi lễ Pâr choo (Lễ tiễn khách và trao lễ vật và của hồi môn). Nghi thức trao của hồi môn cho nhà trai cũng được thực hiện lần lượt:

- Trao cho bố, mẹ chú rể để gửi gắm đứa con gái còn khờ dại, xem con dâu như con gái trong nhà… Trao cho anh, chị cả là để gửi gắm quan tâm chăm sóc, bảo ban em dâu cách đối nhân xử thế, quan tâm những khi ốm đau hay khỏe mạnh. Trao cho chú rể để gửi gắm hãy yêu thương vợ đến đầu bạc răng long. Tấm dèng Dàng Cợt của con gái mà bấy lâu nay bà mẹ cất giữ, nay trao lại cho mẹ chồng trân trọng gìn giữ như gìn giữ tính mạng của chính con dâu mình. Trao cho con gái hãy giữ trọn bổn phận của người vợ người mẹ đứa con dâu trong gia đình, vợ chồng yêu thương nhau suốt đời. Trao của hồi môn cho con gái, phần để làm quà cho nhà chồng, phần để sử dụng cho bản thân.

Để đáp lời nhà gái, nhà trai cũng trao cho gái lễ vật nhận lời như: vàng, bạc, cườm, áo quần, vải vóc, thau chiếu… số lượng tùy theo điều kiện của mỗi gia đình.

Sau lễ cưới chính thức, khoảng một năm sau, nhà trai lại tổ chức nghi lễ Pâr đâyh a mânh; thủ tục khá đơn giản, nhà trai chuẩn bị 1 con heo khoảng 50 kg… với ý nghĩa là để hai bên gia đình qua lại thuận lợi, giúp đỡ nhau trong công việc bếp núc khi có việc lớn hay việc khó thường ngày. Nếu không thực hiện nghi lễ này, mặc dù qua lại với nhau nhưng không giúp được việc nấu nướng và 1 tuần sau đó, nhà gái lại mời nhà trai đến ăn lễ Pa đêq âm paar vừa để đáp lễ nhà trai, vừa để thuận lợi, thoải mái công việc bếp núc không kiêng cự nữa. Và trong khoảng 20 năm sau ngày cưới, đằng nhà trai lại thực hiện nghi lễ Pa nâyq plô (Chấm dứt của hồi môn) cho nhà gái. Lễ vật trong nghi lễ này gồm có 1 con dê, 1 con heo… với ý nghĩa là nhà trai muốn báo cho nhà gái rằng: bên thông gia của nhà trai tuổi đã cao, sức yếu, không còn đủ sức để giúp đỡ về vật chất nữa, mong thông gia đằng nhà gái thông cảm. Từ nay về sau, việc đỡ đần vật chất giao lại cho con trai và con dâu lo liệu, còn thông gia chỉ giúp đỡ mặt tinh thần mà thôi. Đây cũng là nghi lễ cuối cùng nhất trong lễ cưới, hỏi của một đời người.

T.D.T  
(TCSH349/03-2018)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN THẾ

    Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần đã sản sinh trong đời sống, quá trình lao động và sáng tạo của đồng bào dân tộc cư trú từ vùng Tây Bắc trải dài dọc Trường Sơn đến tận cùng phía Nam của tổ quốc.

  • PHONG LÊ   

    Bốn tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình, 25 triệu người dân Việt Nam bước vào năm 1946, năm mở đầu kỷ nguyên Dân chủ - Cộng hòa, bằng một sự kiện vang động lịch sử: Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước, vào ngày 6/1/1946.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Phò mã Nguyễn Văn Thuyên, con trai của Nguyễn Văn Thành, làm thơ ngông bị tố, bị bắt và bị tra khảo.

  • NGUYỄN DUY TỜ    

    1.
    Không phải đến tận năm 1805, ở tuổi 41, được triều đình nhà Nguyễn bổ chức Đông Các học sĩ, trao cho tước Du Đức hầu, Nguyễn Du mới vào Huế.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Từ một hòn đảo hoang vu chưa được nhiều người biết đến, bỗng một ngày đầu thế kỷ 20, Phú Quý được cả người trong nước lẫn người Phú-lãng-sa (Pháp) phải chú ý đến mảnh đất này.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Vì một chữ Liêm

    Cuộc đời làm tướng của Nguyễn Tri Phương ít khi ông được sống với gia đình. Không chinh Nam thì phạt Bắc. Quanh năm rong ruỗi không ngừng.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Vào năm 1802 chúa Nguyễn Phúc Ánh chiến thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long.

  • NGUYỄN ĐÌNH ĐÍNH - VÕ VINH QUANG

    Năm 1790 có một sự kiện ngoại giao tốn nhiều giấy mực, tâm sức của những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà giai đoạn Tây Sơn, mà chính sử triều Nguyễn gọi: Giả vương nhập cận.

  • PHAN THUẬN AN

    Không có tư liệu thì không có lịch sử. Nhưng, nếu có tư liệu mà tư liệu thiếu sót, bất nhất và không chắt lọc kỹ thì cũng dễ dẫn đến chỗ nhầm lẫn khi viết lại quá khứ.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Đình làng Phú Xuân từng được các triều vua Nguyễn “quan tâm đặc biệt” và nay được cấp bằng di tích lịch sử quốc gia. Ở đình, dân làng Phú Xuân thờ một số thiên thần, nhân thần như các làng ở Thuận Hóa, ngoài ra còn thờ một số nhân thần bổn thổ là những nhân vật lịch sử thuộc triều Lê, triều Tây Sơn và triều Nguyễn.

  • VÕ VINH QUANG

    LTS: Từ lâu, việc giải mã nơi đặt lăng mộ Hoàng đế Quang Trung, cung điện Đan Dương là những vấn đề khoa học được giới nghiên cứu trong nước chú ý tìm tòi. Tuy nhiên, tất cả các công việc chỉ nằm trên những bài viết, chưa có sự khảo sát thực địa, khai quật để hiển lộ những kiến giải và cả nghi ngờ.

  • LÊ QUANG THÁI

    Nội dung của bài này chỉ nhằm khiêm tốn khơi gợi lại một số di tích tại chốn kinh sư liên quan đến các nhân vật lịch sử, làng xã, chùa quán mà nhà văn lớn Hà Đình Nguyễn Thuật đã ưu ái dành nhiều cảm xúc quan tâm trong sáng tác thơ văn.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Thời gian gần đây các học giả, các nhà nghiên cứu đã bước đầu đánh giá, nhìn nhận lại công lao của các chúa Nguyễn đối với dân tộc, làm sáng vai trò của các chúa Nguyễn trong sự nghiệp mở mang đất nước vào thế kỷ 17, 18.

  • HUỆ VIÊN 

    Ngày nay, quá trình đô thị hóa trên toàn thế giới đang diễn ra với tốc độ chóng mặt. Nếu như năm 1800 có 29,3 triệu người sống ở các đô thị (chiếm 3,2% tổng số dân thế giới) thì con số này vào năm 2000 là 3,35 tỉ người (chiếm 51%), dự báo đến năm 2025 là 5,2 tỉ (chiếm 61%).

  • THÁI DOÃN HIỂU 

    Hương thơm của đức hạnh và tiếng tăm tài ba vị Trạng nguyên tân khoa Mạc Đĩnh Chi vang sang tận thiên triều. Vua tôi nhà Nguyên ở Yên Kinh xôn xao muốn thử tài xem hư thực ra sao liền gửi thông điệp cho vua nhà Trần yêu cầu cử đích danh Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Quốc.

  • TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Hà Nội âm trầm rồi ào ạt chuẩn bị kỷ niệm 200 năm chiến thắng - Đống Đa, Xuân Lửa diệu kỳ Kỷ Dậu 1789 mà giới quân sự học hiện đại có thể gọi là Chiến dịch Thăng Long, giải phóng kinh thành, miền Bắc...

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

    Nhân theo vua Cảnh Thịnh đi thăm lăng vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm có làm một bài thơ (1) với lời chú thích rất lạ, như thế này:

  • Huyền Trân công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ, trái khoáy với Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung. Bài viết của chúng tôi, xuất phát từ việc phân tích các nguồn sử liệu và kế thừa các ý kiến của người đi trước, sẽ thảo luận về những điểm không logic trong những sự kiện được ghi lại về nhân vật lịch sử này.