TA DƯR TƯ
Trong các nghi lễ vòng đời, lễ cưới, hỏi được xem là lễ quan trọng nhất và trang trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người Pa cô.
Cô dâu chú rễ Pa Cô
Ông, bà, cha, mẹ, anh, chị em trong nhà và họ tộc như một vòng tuần hoàn cuộc đời, họ đã chăm lo cho nhau, thể hiện tình yêu thương và bổn phận trách nhiệm cho mỗi thành viên gia đình, họ tộc. Nghi lễ vòng đời là một nghi lễ mang giá trị tinh hoa, nhân cách, giá trị nhân văn, dấu ấn sâu sắc của cuộc con người từ khi sinh ra cho đến phút lìa đời, con người lại quay về đoàn tụ với tổ tiên.
Từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến khi sang thế giới bên kia gặp lại tổ tiên mình, người Pa cô nói riêng và các dân tộc thiểu số huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế khác nói chung phải trải qua những nghi lễ nhất định theo tập tục, truyền thống, những nghi lễ vòng đời để thể hiện sự nâng niu, trân trọng giá trị hình hài, hồn vía mà các vị giàng, thần linh ban tặng, cầu mong con người sinh ra, lớn lên được khỏe mạnh, may mắn và trường thọ. Vì vậy, nghi lễ vòng đời của người Pa cô thể hiện sự chặt chẽ, trình tự, cung kính, như đi lên từng bậc thang vậy: Pai a moot: (Lễ gia nhập thành viên mới của gia đình, sau khi rụng rốn); Tực giàng Cơt (Lễ tạ ơn vị thần Cợt đã ban tặng đứa con, sau khi đứa con đã được 1 tháng tuổi); Pa choo âr vai, Kroc âr vai (Lễ gọi hồn khi ốm đau, gặp nạn trong suốt đường đời); Pai a ngôh (Lễ xuất gia khi con gái đi lấy chồng); Zoon, pooi akay (Lễ cưới, hỏi cho con trai, con gái); Pai a moot (Lễ nhập gia khi cưới con dâu về); Pa xâr âr vai, rưp, xỉa (Lễ tiễn linh hồn lên trời và đám tang bằng tiếng trống chiêng ấm áp tình người khi con người qua đời); Pa door âng hang (Lễ cải táng) để một lần nữa linh hồn người quá cố được siêu thoát trong bộ xương cốt sạch sẽ khô ráo, người còn sống được thanh thản lương tâm vì đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm chăm lo cho một vòng đời người.
Vì sao lại có các nghi lễ vòng đời? Cũng như bao dân tộc khác, người Pa cô quan niệm rằng: Con người là do Âr bang (Giàng trời), Ku tiek (Giàng đất) ban tặng… A Bum là vị thần được giàng trời, đất giao trách nhiệm việc mài nhẵn hình hài con người và cân đối giới tính, giàng Cợt được giao quản lý sinh mạng, hồn, vía con người, ai có được đứa con là do giàng Cợt tâu trời, đất ban cho đứa con, nếu con người lớn lên khỏe mạnh gặp nhiều may mắn trong đường đời là do giàng Cợt bảo vệ, che chở; còn những ai không có đứa con là giàng Cợt không tâu trời, đất, hay sinh con ra luôn ốm đau bệnh tật là do giàng Cợt không bảo vệ, che chở. Bởi vậy, người Pa cô rất coi trọng các nghi lễ vòng đời mong muốn con người được sinh sôi nảy nở, con người được khỏe mạnh, hạnh phúc, những nghi lễ này luôn tồn tại cho đến ngày nay.
Trong các nghi lễ vòng đời, lễ cưới, hỏi được xem là nghi lễ quan trọng nhất, bởi họ quan niệm rằng: “Đời người chỉ có một lần” nên người Pa cô rất coi trọng. Đối với người Pa cô, khi con trai, con gái đã đến tuổi dựng vợ gả chồng, người cha, người mẹ, anh em họ tộc bắt đầu chuẩn bị các lễ vật truyền thống… Đối với con trai thì cần có: tiền, vàng, bạc, cườm, bò, heo, áo quần, thau, chiếu… Đối với con gái thì cần các lễ vật như: Dèng, chiếu A lơơq, gạo đặc sản các loại, gà, vịt, cá; về số lượng, trọng lượng thì tùy theo điều kiện của mỗi gia đình. Theo truyền thống để lại, con trai hay con gái sau một thời gian tìm hiểu yêu đương và quyết định tiến tới hôn nhân phải có trách nhiệm làm lễ báo cáo cho hai bên gia đình, nhà trai, hay nhà gái trước tùy theo đôi trẻ lựa chọn. Trong lễ cưới gồm có các bước sau:
Lễ Y py a đâ a, y a, ăm (Lễ báo cáo cho bố, mẹ). Đây là nghi lễ thể hiện sự kính trọng lễ phép của con cái đối với bậc sinh thành, báo cáo để bố mẹ biết đứa con của mình đã có sự quyết định trong hôn nhân và để biết chuẩn bị các lễ vật liên quan đến việc cưới hỏi của con sau này.
Lễ Pôôc xeeq (Đám hỏi). Đây là nghi lễ mang tính quyết định, để đôi trẻ tiến tới hôn nhân, 2 bên gia đình kết tình thông gia, nhà trai mang theo lễ vật như: tiền, vàng, bạc, hạt mã não, số lượng tùy theo điều kiện; nhà gái chuẩn bị sẵn một mâm cơm thân mật đón nhà trai và một tấm Dèng để nhận lời. Sau khi vào nhà rồi, nhà trai ra mắt nhà gái bằng cách dọn ra mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn; trong mâm chỉ có thịt heo hoặc trâu, bò, dê và rượu. Nhà trai phải mời nhà gái dùng mâm cỗ trước khi thưa chuyện. Để thể hiện phép lịch sự, đại diện bên nhà gái mở lời trước cho nhà trai thưa chuyện; đại diện nhà trai bắt đầu thưa chuyện… và trao cho đại diện nhà gái lễ vật xin phép nhà gái gả con gái cho nhà trai, ướm hỏi nhà gái đồng ý không? Nhà trai trao lễ vật cho cô con dâu, lễ vật này giá trị lớn hơn lễ vật chạm ngõ; nhà gái nhận lời và báo cho nhà trai biết và chuẩn bị các lễ vật liên quan bắt buộc đến phong tục tập quán. Nhà trai nhận lời. Cuối cùng là hai bên nhà trai nhà gái ấn định thời gian cho lễ cưới chính thức. Sau khi mọi việc xong xuôi, nhà gái mới dọn ra mâm cỗ để tiếp đãi nhà trai.
Một tuần sau khi lễ hỏi diễn ra họ mới tổ chức lễ cưới chính thức. Ở người Pa cô, lễ cưới gồm có 2 bước. Bước 1: Pôôc đooq (Đám cưới tại nhà trai). Bước 2: Pa liah, a leq kâr mai (Đám cưới nhà gái).
Bước 1: Pôôc đooq (Đám cưới tại nhà trai).
Sáng sớm trước khi đưa con gái về nhà chồng, chủ nhà gái làm nghi lễ Pai a ngôh (Xuất gia) và báo cho tổ tiên biết là cháu gái đã đi lấy chồng, mong tổ tiên phù hộ cho sức khỏe, hạnh phúc và gặp nhiều may mắn.
Nhà gái mang theo một số lễ vật đại diện như: dèng, gà luộc, gói xôi, số lượng tùy theo điều kiện của gia đình để tiễn con về nhà chồng; ngoài ra, khi về nhà chồng, cô dâu choàng thêm bên ngoài một tấm dèng gọi là Pâr lang để tránh những điều xui xẻo trên đường về nhà chồng.
Mẹ chồng chờ sẵn tại cổng nhà để đón con dâu, đồng thời cởi luôn tấm dèng Pâr lang từ cô dâu và đeo cho cô dâu chuỗi cườm để đón nhận con dâu.
Khi nhà gái vào nhà, nhà trai tiến hành làm lễ Pâr xool (Nhận thông gia), từ nay hai bên gia đình trở thành thông gia, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn và lễ vật đại diện mà nhà gái mang theo cũng được trao luôn cho nhà trai trong nghi lễ này.
Sau khi nhà gái thưởng thức bữa tiệc đặc biệt được tiếp đón, nhà trai tiếp tục thực hiện một nghi quan trọng nhất trong ngày cưới, đó là nghi lễ Pâr choo, Târ lêh (Tiễn khách, trao lễ vật và của hồi môn). Người Pa cô tiến bộ ngày nay không còn tục thách cưới như ngày xưa nữa, nhà trai cho được của hồi môn bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, nhưng riêng lễ vật liên quan đến phong tục tập quán thì bắt buộc nhà trai lo cho bằng được theo số lượng quy định, còn trọng lượng thì tùy theo điều kiện. Nghi thức tiễn khách và trao của hồi môn cho nhà gái được nhà trai thực hiện trình tự:
- Trao cho bố, mẹ cô dâu để tạ ơn công sinh thành dưỡng dục đứa con gái lớn khôn ngoan hiền. Trao cho anh, chị cả cô dâu là để gửi gắm quan tâm chăm sóc, thăm nom, dạy bảo em gái thường xuyên những khi ốm đau hay khỏe mạnh. Trao cho chủ họ để tạ ơn đã lo lắng, đỡ đần cả vật chất lẫn tinh thần cho nhà thông gia trong việc cưới hỏi.
Sau nghi thức trao của hồi môn thì lễ cưới Bước 1 kết thúc. Nhà gái định thời gian để tổ chức bước lễ cưới thứ 2 tại nhà gái.
Đêm đầu tiên con dâu về nhà chồng, cha mẹ chồng thực hiện nghi thức Pa tưưp a đeh, pa cha đooi. Đôi vợ chồng mới cưới ngồi ăn chung một chén cơm nếp để cầu mong đôi vợ chồng mãi mãi hạnh phúc đến đầu bạc răng long, cầu mong cho đôi trẻ tình cảm mặn nồng, hạnh phúc bền lâu, sinh con đẻ cái khỏe mạnh và cuộc sống tốt đẹp hơn, từ nay vợ chồng mới cưới được phép làm vợ làm chồng chính thức. Sau đó là đến nghi lễ Pa tăm Pâr lang trong vòng ba ngày kiêng cự không cho cô dâu ra ngoài chỉ ở xung quanh nhà, để tránh người xấu chọc gẹo, dèm pha…
Bước 2: Pa liah, a leq kâr mai (Đám cưới nhà gái).
Một tuần sau lễ cưới đầu tiên tại nhà trai, để hai gia đình được thuận lợi trong việc qua lại thăm nom nhau mà không phải kiêng cự nữa, nhà gái lại tiến hành tổ chức lễ cưới tại nhà gái, người Pa cô gọi là lễ Pa liah a kay hay còn gọi A leq kâr mai.
Đến dự lễ cưới tại nhà gái, nhà trai chuẩn bị lễ vật và hồi môn khá tươm tất để thể hiện sự tôn trọng đối với nhà gái và lòng tự trọng của nhà trai, vì vậy, họ thường khiêng theo 1 con heo to và kèm theo của hồi môn khác.
Trong lễ cưới này, người đi vào đầu tiên phải là cô dâu; cô dâu mang theo một chiếc đũa bếp, vừa lên cầu thang đồng thời thả chiếc đũa đó xuống dưới cầu thang, có nghĩa rằng từ nay con gái và con rể mới được phép vào nhà bố mẹ, muốn lui tới, thăm nom cha mẹ thì không còn kiêng cự nữa.
Tương tự như lễ cưới tại nhà trai, khi nhà trai vào nhà, nhà gái tiến hành làm lễ gọi Pâr xool (Nhận thông gia). Từ nay hai bên gia đình trở thành thông gia, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn, nhà trai trao cho nhà gái con heo để làm thịt chuẩn bị cho nghi thức tiếp theo.
Sau khi bên nhà trai đã dự bữa tiệc thịnh soạn được nhà gái tiếp đón, nhà gái thực hiện nghi thức đặc biệt dành cho nhà trai, đó là nghi thức Pa dưưn Khơi, nghi thức này nhằm thể hiện sự đối đãi, quý trọng rể quý và nhà thông gia.
Tiếp đến là nghi thức quan trọng nhất trong ngày cưới, đó là nghi lễ Pâr choo (Lễ tiễn khách và trao lễ vật và của hồi môn). Nghi thức trao của hồi môn cho nhà trai cũng được thực hiện lần lượt:
- Trao cho bố, mẹ chú rể để gửi gắm đứa con gái còn khờ dại, xem con dâu như con gái trong nhà… Trao cho anh, chị cả là để gửi gắm quan tâm chăm sóc, bảo ban em dâu cách đối nhân xử thế, quan tâm những khi ốm đau hay khỏe mạnh. Trao cho chú rể để gửi gắm hãy yêu thương vợ đến đầu bạc răng long. Tấm dèng Dàng Cợt của con gái mà bấy lâu nay bà mẹ cất giữ, nay trao lại cho mẹ chồng trân trọng gìn giữ như gìn giữ tính mạng của chính con dâu mình. Trao cho con gái hãy giữ trọn bổn phận của người vợ người mẹ đứa con dâu trong gia đình, vợ chồng yêu thương nhau suốt đời. Trao của hồi môn cho con gái, phần để làm quà cho nhà chồng, phần để sử dụng cho bản thân.
Để đáp lời nhà gái, nhà trai cũng trao cho gái lễ vật nhận lời như: vàng, bạc, cườm, áo quần, vải vóc, thau chiếu… số lượng tùy theo điều kiện của mỗi gia đình.
Sau lễ cưới chính thức, khoảng một năm sau, nhà trai lại tổ chức nghi lễ Pâr đâyh a mânh; thủ tục khá đơn giản, nhà trai chuẩn bị 1 con heo khoảng 50 kg… với ý nghĩa là để hai bên gia đình qua lại thuận lợi, giúp đỡ nhau trong công việc bếp núc khi có việc lớn hay việc khó thường ngày. Nếu không thực hiện nghi lễ này, mặc dù qua lại với nhau nhưng không giúp được việc nấu nướng và 1 tuần sau đó, nhà gái lại mời nhà trai đến ăn lễ Pa đêq âm paar vừa để đáp lễ nhà trai, vừa để thuận lợi, thoải mái công việc bếp núc không kiêng cự nữa. Và trong khoảng 20 năm sau ngày cưới, đằng nhà trai lại thực hiện nghi lễ Pa nâyq plô (Chấm dứt của hồi môn) cho nhà gái. Lễ vật trong nghi lễ này gồm có 1 con dê, 1 con heo… với ý nghĩa là nhà trai muốn báo cho nhà gái rằng: bên thông gia của nhà trai tuổi đã cao, sức yếu, không còn đủ sức để giúp đỡ về vật chất nữa, mong thông gia đằng nhà gái thông cảm. Từ nay về sau, việc đỡ đần vật chất giao lại cho con trai và con dâu lo liệu, còn thông gia chỉ giúp đỡ mặt tinh thần mà thôi. Đây cũng là nghi lễ cuối cùng nhất trong lễ cưới, hỏi của một đời người.
T.D.T
(TCSH349/03-2018)
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀN
Ngày 3/5/1916, trong khi bên trong Hoàng cung, nhà vua trẻ Duy Tân chuẩn bị xuất cung với những công việc và nghi thức hết sức khẩn trương, nghiêm trang và đầy bí mật, thì bên ngoài Hoàng cung, từ bốn phía, những đội nghĩa binh và các vị thủ lĩnh ở các tỉnh và các vùng lân cận Kinh đô Huế cũng đã bí mật tụ về ứng nghĩa.
Nằm sâu hút trong những cánh rừng bạt ngàn với các dãy núi đá cao ngất, nơi chỉ có gió, núi, thú hoang và những tán cây rừng, bản Hoo, thôn A Năm, xã Hồng Vân, huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế) là một thung lũng nằm dưới chân núi A Noong- một nơi gần như biệt lập, "lãng quên” trước phố thị A Lưới ồn ào, náo nhiệt.
LÊ QUANG THÁI
Người xưa chỉ dạy rõ về cách thức viết tiểu sử bằng câu nhớ đời chẳng quên: “Phàm xem nhân vật nên xem về tiểu sử, sẽ thấy nhân vật”(1). Đông phương và Tây phương đều coi trọng việc viết tiểu sử đúng phương pháp, hợp quy cách, nói cho dễ hiểu là viết và dịch tiểu sử theo đúng bài bản quy định của bộ môn này.
CHƯƠNG THÂU
Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ Tĩnh là một người công giáo yêu nước, thông hiểu nho học và là người tiếp thu văn hóa tiến bộ của phương tây sớm nhất ở nước ta.
NGUYỄN THỊ MINH THÁI
Đối thoại với nhà sử học Lê Văn Lan về chủ đề “sự đi đây đi đó”, nhất là sự xuất dương nước ngoài của người Việt, từ xã hội cổ truyền đến xã hội hiện đại, hai chúng tôi đồng thuận: một dân tộc nông dân, sự sống sự chết đều diễn ra trong khung cảnh làng Việt cổ truyền, cả đời lo làm ruộng,“chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” như nông dân Việt, thì rất không muốn nay đây mai đó, chỉ thích yên phận sau lũy tre làng.
LÊ THỊ ÁNH TUYẾT
Hiếu học không chỉ thể hiện ở người học mà còn thể hiện ở vai trò của gia đình, mà trước hết là ở những người mẹ, người vợ, người bà, người chị, người em gái trong nhà.
(SHO). Từ 12h trưa nay, 11/10, các cơ quan, công sở bắt đầu treo cờ rủ, cả nước để tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cũng từ sau 12h hôm nay, nhiều kênh truyền hình đã thông báo tạm ngưng phát sóng cho đến chiều 13/10.
(SHO) - Ngày 04/9, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý môi trường du lịch, đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch.
TRƯƠNG SỸ HÙNG
Là một quan chức được nhà nước bổ nhiệm sau khi thi đỗ cử nhân năm 1876; lại trải qua nhiều địa vị xã hội khác nhau, Cao Xuân Dục đã đúc kết được nhiều thức nhận về việc học hành, thi cử và bước đầu thể hiện khá rõ những quan điểm giáo dục như: trọng thực học hơn là bằng cấp, tinh giản hay mở rộng kiến thức cơ bản về quốc sử cho Nho sinh tùy theo cấp học, tiếp thu vốn cổ văn hóa gia đình nhưng có chọn lọc và đổi mới. Thực học thì kiến thức dồi dào phong phú, khi nhập thế “chăn dân trị đời” theo quan niệm Nho giáo sẽ chủ động, sáng tạo linh hoạt trong thực tiễn, ít khi bị tác động ngoại cảnh.
LÊ VĂN HẢO
Thế kỷ XV - XVI ở nước ta, sau thắng lợi vĩ đại của khởi nghĩa Lam Sơn và của chiến tranh giải phóng dân tộc, đã bước vào một thời kỳ phục hưng mới của nền văn hóa Đại Việt.
HOÀNG MINH TIẾN
Nhắc đến các bậc danh nhân văn chương triều Nguyễn không ai không nhớ câu truyền tụng: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Thế mà cả Tùng Thiện Vương và Cao Bá Quát đều rất quí trọng tài năng thơ Nguyễn Hàm Ninh(1).
…Trời chung không đội với thù Tây
Quyết trả ơn vua, nợ nước nầy.
Một mối ba giềng xin giữ chặt
Thân dù thác xuống rạng đài mây.
(Trần Cao Vân)
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Trước và sau ngày Việt Nam độc lập thống nhất (1975), tôi rất thích bài hát “Người mẹ Bàn Cờ” của Trần Long Ẩn trong Phong trào Đấu tranh đô thị miền Nam.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN Triều Nguyễn đã phạm một sai lầm với ngành sử học là đã tiêu hủy toàn bộ những sách vở, di tích, tư liệu có liên quan đến phong trào Tây Sơn, đặc biệt với người anh hùng dân tộc vĩ đại Nguyễn Huệ - Quang Trung.
VIỄN PHƯƠNG Kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ 27-7 Những gì hùng vĩ nhất khi ở lại với thời gian thì sẽ trở thành những dấu mốc tồn tại vĩnh hằng trong lịch sử. Tiểu đoàn 804 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và tự đi vào lịch sử như một giá trị vĩnh cửu. Sứ mệnh lịch sử và sự hoàn thành nó của những chiến sĩ 804 sẽ hiện hữu vĩnh hằng với thời gian.
TRẦN ANH VINH(Kỷ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9)Lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất nhằm giải phóng khỏi ách đô hộ thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam thời kỳ cận - hiện đại, Phan Bội Châu là chiếc cầu nối.