NGUYỄN THẾ
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần đã sản sinh trong đời sống, quá trình lao động và sáng tạo của đồng bào dân tộc cư trú từ vùng Tây Bắc trải dài dọc Trường Sơn đến tận cùng phía Nam của tổ quốc.
Nghệ nhân Nhân dân Quỳnh Hoàng và tác giả
Trong tiến trình lịch sử phát triển của đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều di sản văn hóa quý giá được cộng đồng người dân gìn giữ cho đến hôm nay. Đặc biệt là kho tàng tri thức dân gian về sản xuất nông nghiệp, ẩm thực, kiến trúc dân gian, nghệ thuật diễn xướng, các tiết mục dân vũ, ca nhạc dân gian truyền thống trình diễn trong các lễ hội…
Bao đời nay, đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số được thể hiện qua hoạt động lễ hội dân gian truyền thống. Những dàn cồng chiêng, ché đựng rượu cần, nhạc cụ dân gian… là thước đo về sự giàu có cả về vật chất và tinh thần của cộng đồng. Bên cạnh đó, yếu tố con người, chủ thể hoạt động lễ hội có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì văn hóa dân gian truyền thống của đồng bào các dân tộc. Nhiều người đã được tiếp thu tri thức về hoạt động văn hóa lễ hội dân gian từ thế hệ trước, và với tinh thần say mê văn hóa tộc người, họ tiếp tục có những sáng tạo để làm phong phú thêm kho tàng văn hóa cộng đồng. Họ trở thành những người lưu giữ và truyền dạy cho thế hệ tiếp theo vốn liếng văn hóa của cộng đồng. Với tài năng và tâm huyết vốn có, họ đã góp phần vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng. Khuyến nghị của Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc - UNESCO về việc “Bảo vệ văn hóa cổ truyền và văn hóa dân gian” thông qua tại kỳ họp toàn thể Đại hội đồng lần thứ 25 tại Paris ngày 15/11/1989 đề nghị tặng họ danh hiệu Báu vật nhân văn sống (Living Human Treasures).
Ngày 13 tháng 11 năm 2015, Nghệ nhân Quỳnh Hoàng, ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký quyết định phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú với thành tích: Đã có cống hiến xuất sắc trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 8 tháng 3 năm 2019, Nghệ nhân Ưu tú Quỳnh Hoàng được Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ký quyết định tặng danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân. Đây là danh hiệu cao quý của Nhà nước tặng cho nghệ nhân Quỳnh Hoàng và cũng là niềm vinh dự lớn đối với nhân dân huyện A Lưới và tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tên thường gọi của Nghệ nhân Nhân dân Quỳnh Hoàng là Cu Xân, sinh năm 1920 (tính đến nay là 101 tuổi), ông là người dân tộc Tà Ôi, hiện đang sống tại thôn A Diên, xã A Ngo, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ năm lên 10, Quỳnh Hoàng đã theo gia đình tham dự các lễ hội truyền thống của bà con dân tộc Tà Ôi. Trong các dịp lễ hội, cụ thường tìm cơ hội tiếp cận các già làng để được tận tai nghe những giai điệu âm nhạc của núi rừng, tận mắt thấy những động tác nhảy múa của trai làng, gái bản… Đặc biệt là thưởng thức tài năng biểu diễn cồng chiêng và các nhạc cụ truyền thống của các bậc trung niên, già làng, trưởng bản. Không những vậy, cụ còn tìm đến và hòa mình vào lễ hội của các dân tộc anh em khác ở A Lưới. Âm thanh từ tiếng đàn, tiếng khèn vang lên những giai điệu trữ tình đầm ấm cùng các câu ca, điệu lý đã tạo cho chàng trai Quỳnh Hoàng đắm mình vào không gian của tình yêu đôi lứa. Tiếng cồng, tiếng chiêng như thôi thúc đôi chân nhảy múa. Những hoạt động văn hóa nơi đại ngàn A Lưới đã làm cho Quỳnh Hoàng mê say và trở thành một người nghệ sĩ của nghệ thuật trình diễn văn hóa dân gian trong các lễ hội truyền thống cộng đồng. Năng khiếu thẩm âm từ đôi tai đã tạo cho Quỳnh Hoàng nhanh chóng trở thành một nghệ nhân chế tác nhạc cụ truyền thống dân tộc. Từ năm 20 tuổi, Quỳnh Hoàng đã biết chế tác nhiều loại nhạc cụ dân tộc như khèn bè Tà Ôi; sáo Tireel; Âmplung (tương tự đàn Cha pi); Tù và; Căr đook adol (kèn làm bằng sừng sơn dương); Aben (đàn nhị); ntoong (đàn gỗ); Tâmphe’r (đàn Ta lư); Acưr (trống gỗ); các loại nhạc cụ bằng tre (phát âm thanh nhờ sức gió, sức nước, để đuổi chim thú nơi nương rẫy)… Khèn bè là loại nhạc cụ khó chế tác nhất, đòi hỏi nghệ nhân phải là người thành thạo trong biểu diễn khèn, nghe và phân biệt hòa âm chính xác những cung bậc âm thanh phát ra ở từng thanh đồng (những mảnh lá đồng dát mỏng, còn gọi là lam đồng, lưỡi gà) cắm vào các “khẩu huyệt” được khoét trên các ống sậy nhỏ (còn gọi là loại trúc sậy), loại này tương tự như nứa nhưng nhỏ và dày hơn. Các ống sậy được hong phơi dưới nắng nhẹ, sau đó tiếp tục để trên giàn bếp củi của gia đình một thời gian dài. Hơi nóng và khói bếp sẽ tiếp tục làm cho ống sậy khô bóng và bền chắc. Cây khèn Tà Ôi do cụ Quỳnh Hoàng chế tác gồm 14 ống. Các ống được phân chia theo từng cặp đôi từ ngắn đến dài rồi tra vào “bầu khèn” bằng gỗ hình bầu dục gắn bằng nhựa cây. “Bầu khèn” có khoang rỗng nhỏ chứa luồng hơi (hút vào, thổi ra) tác động vào các lá đồng tạo những âm thanh có cao độ khác nhau. Khi thổi, các âm thanh cao thấp, trầm bổng hòa vào nhau thành bè, tạo nên khúc hòa âm đặc trưng của núi rừng đại ngàn. Khèn có những lỗ thoát hơi, khi bấm tay chận vào có thể điều khiển được thang âm. Cơ chế hoạt động để tạo ra âm thanh tương tự như khi thổi kèn Harmonica (khẩu cầm).
Ngoài chế tác khèn bè và các loại nhạc cụ dân tộc, nghệ nhân Quỳnh Hoàng còn thẩm âm để chỉnh sửa âm thanh cồng chiêng. Đây là một công việc cực kỳ khó, đòi hỏi người chỉnh sửa cồng chiêng phải có năng khiếu thẩm âm tốt, cảm nhận được “thang âm cung bậc”, tiếng ngân dài ngắn, trong đục của từng chiếc cồng, chiêng ở trong từng vị trí của dàn nhạc cồng chiêng. Do trong quá trình chế tác (đúc chiêng) độ dày mỏng không đồng đều, âm thanh thiếu sự chuẩn xác, nghe chưa hay. Người chỉnh âm phải vừa nghe, vừa dùng các dụng cụ mài gõ tạo sự lồi lõm đồng đều ở hai mặt chiếc chiêng, cồng tạo hiệu ứng cho thanh âm chuẩn hơn khi dùng dùi hoặc tay đánh vào.
Từ lúc còn tuổi trẻ cho đến khi nhận vai già làng, nghệ nhân Quỳnh Hoàng luôn đi đầu trong sinh hoạt lễ hội văn hóa cộng đồng dân tộc Tà Ôi ở A Lưới. Ông đã không ngừng truyền dạy các làn điệu dân ca, dân vũ cho lớp trẻ. Những người muốn gặp ông để trao đổi kinh nghiệm, tìm hiểu về thực hành hoặc chế tác nhạc cụ, ông luôn nhiệt tình giúp đỡ, cho dù người đó thuộc tộc người Tà Ôi, Katu, Pa Cô hay Pa Hy. Vào những dịp Liên hoan nghệ thuật quần chúng cấp tỉnh (từ thời còn tỉnh Bình Trị Thiên), cho đến những lần tổ chức Ngày hội văn hóa các dân tộc miền núi ở A Lưới ông đều tham gia dàn dựng các tiết mục cho đội văn nghệ xã A Ngo tham gia biểu diễn trong các dịp liên hoan nghệ thuật. Đặc biệt trong cuộc liên hoan nghệ thuật “Gặp gỡ cao nguyên” năm 1994, ông đã giành huy chương bạc với tiết mục độc tấu cồng chiêng. Trong liên hoan nghệ thuật quần chúng “Miền Trung và Tây Nguyên” tổ chức tại Huế, ông đã cùng các già làng dàn dựng 2 tiết mục dân vũ cho đội văn nghệ A Ngo tham dự, kết quả cả hai tiết mục đều đạt huy chương vàng. Đội văn nghệ xã A Ngo, huyện A Lưới dưới sự dẫn dắt và chỉ đạo nghệ thuật của nghệ nhân Quỳnh Hoàng luôn đạt nhiều giải thưởng cao trong các lần tham dự liên hoan nghệ thuật quần chúng do các cấp tổ chức. Đó là phần thưởng tinh thần, là niềm tự hào của nghệ nhân Quỳnh Hoàng trong những năm tháng đóng góp cùng đội văn nghệ xã nhà A Ngo.
Tài năng của nghệ nhân Quỳnh Hoàng đã lan tỏa khắp cộng đồng dân tộc thiểu số ở miền Trung và Tây nguyên, nhất là trong lĩnh vực chế tác nhạc cụ. Nhiều đồng bào các tộc người ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam đã tìm đến cụ để mua hoặc đặt làm các loại nhạc cụ. Nhiều người còn mang cả cồng chiêng và các loại nhạc cụ bị hư hỏng đến nhờ ông chỉnh sửa. Trong một dịp đi khảo sát về tiềm năng du lịch ở huyện Tây Giang cùng phóng viên Ban Khoa giáo Đài Truyền hình Việt Nam, chúng tôi đã được anh Ploong Plênh, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư và Phát triển du lịch huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam đưa đến nhà già làng C’lâu Blao ở làng Voòng, xã Tr’hy, tại đây tôi đã trông thấy cây khèn bè giống y cây khèn do nghệ nhân Quỳnh Hoàng đã làm cho tôi. Tôi hỏi già làng C’lâu Blao, đây có phải là cây khèn do Ông Quỳnh Hoàng ở A Lưới làm không? Ông C’lâu Blao gật đầu xác nhận. Tôi thấy tự hào về sự xuất hiện nhạc cụ của đồng bào dân tộc A Lưới (Thừa Thiên Huế) tại Quảng Nam. Hỏi ra mới biết, hiện nay ở cộng đồng dân tộc Katu ở Quảng Nam không còn ai chế tác được nhạc cụ khèn bè. Tôi cũng lo rằng, sau này ai sẽ tiếp tục làm khèn bè, một nhạc cụ độc đáo không thể thiếu trong hoạt động văn nghệ dân gian ở A Lưới. May thay vẫn còn truyền nhân Pi Kêr Dơ, sinh năm 1973, dân tộc Pa Cô, ở thôn Lê Ninh, xã Hồng Bắc, huyện A Lưới. Anh Pi Kêr Dơ hiện công tác ở phòng Văn hóa thông tin A Lưới, là người được nghệ nhân Quỳnh Hoàng truyền ngón nghề chế tác khèn bè và nhiều loại nhạc cụ dân tộc.
Hiện nay, nhiều di sản văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số đang có nguy cơ mai một. Ngành văn hóa và lãnh đạo các địa phương đã có những đề án bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số. Các thiết chế văn hóa được xây dựng, các lễ hội truyền thống của đồng bào đã được phục dựng. Một số di sản được làm hồ sơ công nhận di sản phi vật thể cấp quốc gia. Nhiều nghệ nhân được tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú” như trường hợp Nghệ nhân Nhân dân Quỳnh Hoàng; Nghệ nhân Ưu tú Hồ Thị Tư ở huyện A Lưới. Đây chính là những người con tiêu biểu đã góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người ở A Lưới. Họ xứng đáng là những Báu vật nhân văn sống của cộng đồng, của quê hương đất nước.
Ghé thăm Nghệ nhân Nhân dân Quỳnh Hoàng lần này, trong căn nhà sàn truyền thống của người Tà Ôi. Đây là một trong những ngôi nhà sàn hiếm hoi còn giữ được ở A Lưới. Hầu chuyện với ông tôi mới nhận ra rằng dù nay đã ngoài 100 tuổi, đôi chân già yếu không thể tự đứng lên được, nhưng cứ nhắc đến kỷ niệm về những lần tham gia lễ hội làng hay liên hoan nghệ thuật quần chúng các dân tộc, mắt ông lại sáng lên. Những bằng công nhận, bằng khen, giấy khen, những tấm hình chụp nghệ nhân Quỳnh Hoàng đang biểu diễn nhạc cụ dân tộc ở bản làng hay trên sân khấu hội diễn; những hình ảnh khi ông nhận danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú; Nghệ nhân Nhân dân do Chủ tịch nước trao tặng đã trở thành những kỷ vật quý giá của cuộc đời ông. Ngôi nhà sàn và những hiện vật phục vụ cho đời sống và hoạt động nghệ thuật do ông tự tay chế tác là những hiện vật gốc giá trị. Tôi tin rằng nếu gia đình phối hợp cùng tổ chức du lịch ở địa phương đầu tư xây dựng nơi đây trở thành một điểm đến hấp dẫn của du khách. Trong xu thế phát triển du lịch hiện nay, những sản phẩm du lịch văn hóa đang rất được du khách quan tâm.
Những tưởng rằng tuổi đã quá già, sức khỏe ngày càng yếu chắc từ nay nghệ nhân Quỳnh Hoàng khó có thể tiếp tục chế tác hay chỉnh sửa nhạc cụ được nữa. Nhưng khi ông chỉ chiếc khèn bè của người em mang đến nhờ ông chỉnh sửa, ông bảo với tôi rằng, vài hôm nữa sẽ sửa chiếc khèn cho chú em. Tôi chợt nghĩ ra rằng có lẽ đến hơi thở cuối cùng, Nghệ nhân Nhân dân Quỳnh Hoàng mới thôi đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số nơi vùng cao A Lưới. Nghệ nhân Nhân dân Quỳnh Hoàng là tấm gương trọn đời vì sự nghiệp văn hóa của quê hương đất nước.
N.T
(TCSH44SDB/03-2022)
PHONG LÊ
Bốn tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình, 25 triệu người dân Việt Nam bước vào năm 1946, năm mở đầu kỷ nguyên Dân chủ - Cộng hòa, bằng một sự kiện vang động lịch sử: Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước, vào ngày 6/1/1946.
VÕ VINH QUANG
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Phò mã Nguyễn Văn Thuyên, con trai của Nguyễn Văn Thành, làm thơ ngông bị tố, bị bắt và bị tra khảo.
NGUYỄN DUY TỜ
1.
Không phải đến tận năm 1805, ở tuổi 41, được triều đình nhà Nguyễn bổ chức Đông Các học sĩ, trao cho tước Du Đức hầu, Nguyễn Du mới vào Huế.
PHẠM XUÂN DŨNG
Từ một hòn đảo hoang vu chưa được nhiều người biết đến, bỗng một ngày đầu thế kỷ 20, Phú Quý được cả người trong nước lẫn người Phú-lãng-sa (Pháp) phải chú ý đến mảnh đất này.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Vì một chữ Liêm
Cuộc đời làm tướng của Nguyễn Tri Phương ít khi ông được sống với gia đình. Không chinh Nam thì phạt Bắc. Quanh năm rong ruỗi không ngừng.
TA DƯR TƯ
Trong các nghi lễ vòng đời, lễ cưới, hỏi được xem là lễ quan trọng nhất và trang trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người Pa cô.
ĐINH VĂN TUẤN
Vào năm 1802 chúa Nguyễn Phúc Ánh chiến thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long.
NGUYỄN ĐÌNH ĐÍNH - VÕ VINH QUANG
Năm 1790 có một sự kiện ngoại giao tốn nhiều giấy mực, tâm sức của những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà giai đoạn Tây Sơn, mà chính sử triều Nguyễn gọi: Giả vương nhập cận.
PHAN THUẬN AN
Không có tư liệu thì không có lịch sử. Nhưng, nếu có tư liệu mà tư liệu thiếu sót, bất nhất và không chắt lọc kỹ thì cũng dễ dẫn đến chỗ nhầm lẫn khi viết lại quá khứ.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Đình làng Phú Xuân từng được các triều vua Nguyễn “quan tâm đặc biệt” và nay được cấp bằng di tích lịch sử quốc gia. Ở đình, dân làng Phú Xuân thờ một số thiên thần, nhân thần như các làng ở Thuận Hóa, ngoài ra còn thờ một số nhân thần bổn thổ là những nhân vật lịch sử thuộc triều Lê, triều Tây Sơn và triều Nguyễn.
VÕ VINH QUANG
LTS: Từ lâu, việc giải mã nơi đặt lăng mộ Hoàng đế Quang Trung, cung điện Đan Dương là những vấn đề khoa học được giới nghiên cứu trong nước chú ý tìm tòi. Tuy nhiên, tất cả các công việc chỉ nằm trên những bài viết, chưa có sự khảo sát thực địa, khai quật để hiển lộ những kiến giải và cả nghi ngờ.
LÊ QUANG THÁI
Nội dung của bài này chỉ nhằm khiêm tốn khơi gợi lại một số di tích tại chốn kinh sư liên quan đến các nhân vật lịch sử, làng xã, chùa quán mà nhà văn lớn Hà Đình Nguyễn Thuật đã ưu ái dành nhiều cảm xúc quan tâm trong sáng tác thơ văn.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Thời gian gần đây các học giả, các nhà nghiên cứu đã bước đầu đánh giá, nhìn nhận lại công lao của các chúa Nguyễn đối với dân tộc, làm sáng vai trò của các chúa Nguyễn trong sự nghiệp mở mang đất nước vào thế kỷ 17, 18.
HUỆ VIÊN
Ngày nay, quá trình đô thị hóa trên toàn thế giới đang diễn ra với tốc độ chóng mặt. Nếu như năm 1800 có 29,3 triệu người sống ở các đô thị (chiếm 3,2% tổng số dân thế giới) thì con số này vào năm 2000 là 3,35 tỉ người (chiếm 51%), dự báo đến năm 2025 là 5,2 tỉ (chiếm 61%).
THÁI DOÃN HIỂU
Hương thơm của đức hạnh và tiếng tăm tài ba vị Trạng nguyên tân khoa Mạc Đĩnh Chi vang sang tận thiên triều. Vua tôi nhà Nguyên ở Yên Kinh xôn xao muốn thử tài xem hư thực ra sao liền gửi thông điệp cho vua nhà Trần yêu cầu cử đích danh Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Quốc.
TRẦN QUỐC VƯỢNG
Hà Nội âm trầm rồi ào ạt chuẩn bị kỷ niệm 200 năm chiến thắng - Đống Đa, Xuân Lửa diệu kỳ Kỷ Dậu 1789 mà giới quân sự học hiện đại có thể gọi là Chiến dịch Thăng Long, giải phóng kinh thành, miền Bắc...
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Nhân theo vua Cảnh Thịnh đi thăm lăng vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm có làm một bài thơ (1) với lời chú thích rất lạ, như thế này:
Huyền Trân công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ, trái khoáy với Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung. Bài viết của chúng tôi, xuất phát từ việc phân tích các nguồn sử liệu và kế thừa các ý kiến của người đi trước, sẽ thảo luận về những điểm không logic trong những sự kiện được ghi lại về nhân vật lịch sử này.