Nhà thơ Yevgeny Yevtushenko - Ảnh: famouspoetsandpoems.com
EP-GHÊ-NHI EP-TU-SEN-KÔ (Nga) Không đề Những nhà thơ không bỏ những bài thơ Những bài thơ sẽ bỏ những nhà thơ Khi họ bỏ cánh buồm Ngược theo gió nhút nhát. Và những ai ngủ lâu trong sương mù Của những bài phê bình bùng binh, không đáng kể Họ từ lâu tự cưa cụt cánh buồm Bằng cái dũa móng tay kẻ khác. Họ không đậu lại đâu, trong những bài thơ đẽo gọt của mình Trong những chữ đầu dòng tên tác giả Họ phản bội dòng chữ Và tư tưởng của mình. Rồi một khi nào đấy, thật là vô ích Thân xác họ bơ phờ sau lớp muối mỏng tang Họ cam đoan: những bài thơ đã viết Trong mồ hôi tuôn tràn. Cánh buồm bị xén đi - không phải ngọn cờ Trong sự nghiệp chúng ta, nó chẳng là công trạng Khi nghề thủ công những nhà thơ chiếm được Với chúng ta - ghê sợ đến bàng hoàng. Sự tán gẫu ba hoa tồi tệ hơn sự lặng im Họ kết thúc bay lên bằng rơi xuống Tán gẫu ba hoa bị đập vụn Và sẽ biến tan đi… Bằng sự khạc ra từ núm vú Những bài thơ tuyên chiến với nhà thơ Như trẻ con tước đi tư cách làm cha Của những người cha không xứng là cha nữa. Và trong chúng ta, ai sẽ là người như thế Trở thành nhút nhát, thọc dẹp, bỏ đi? Còn thơ của chúng ta sẽ chẳng hề nhỏ lệ Xuống những nấm mồ xa lạ của nhà thơ! NGUYỄN TRỌNG TẠO dịch (Từ Tạp chí tuổi trẻ (Liên Xô) số 6-1980)
ODYSSEAS ELYTIS (Hy Lạp - Nobel 1979)
Ngày chói lọi, tiếng ốc đó Ngày chói lọi, tiếng ốc đó đã tạo dựng tôi trần trụi, rong chơi trong những ngày chủ nhật. Giữa tiếng kêu mừng đón của những bờ biển Nổi lên ngọn gió mới biết lần đầu Lan ra trên thảm cỏ xanh thân mật Trên đó mặt trời có thể lăn tròn cái đầu của mình và thắp sáng những cây bạch dương mà bọn người ngạo mạn sẽ nhổ lên. Đến nỗi nơi đó có lẽ chẳng còn dấu hiệu gì khác trên những khuôn ngực trần của chúng hơn giòng máu của lòng khinh miệt vô tâm bôi xóa nỗi phiền muộn Trườn đến xa xăm như ký ức về tự do Tôi nói về tình yêu, về sức khỏe đóa hoa hồng về ánh mặt trời Mà trái tim cô đơn hằng tìm kiếm Về Tổ quốc Hy Lạp bước lên biển với sự an toàn Về Tổ quốc Hy Lạp luôn kéo tôi vào những chuyến du hành đến những đồi núi tuyết phơi trần rực rỡ Tôi trao bàn tay cho lẽ phải Cho suối nguồn trong trẻo tuôn tràn trên đỉnh non cao bầu trời tôi thăm thẳm xanh êm bất cứ những gì tôi yêu đều không ngừng sinh nở bất cứ những gì tôi yêu luôn ở chỗ bắt đầu TRẦN PHƯƠNG KỲ (dịch từ thơ Châu Âu hiện đại) (6/4-84) |
Muin Bseiso - Rasul Gamzatov
Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899 -1977) là nhà văn Nga - Mỹ nổi tiếng. Ông sáng tác ở nhiều thể loại văn học khác nhau. Ông được giải thưởng Nôben văn học năm 1955. Những tiểu thuyết đặc sắc của ông là: - Quà tặng (1937), Đến nơi xử tử (1935 - 1936), Lolita (1955)…
L.T.S. "BÍ ẨN TÌNH YÊU" là tập thơ chọn lọc những bài thơ tình nổi tiếng thế giới do dịch giả Đắc Lê và nhà thơ Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, NXB Văn Học ấn hành 1993. TCSH trân trọng giới thiệu dưới đây một số bài trích trong tập thơ đó.
Ogiwara Seisensui - Murakami Kijo - Saito Sanki - Ozaki Hosai
Tác giả Jon Fosse, người Na Uy, 64 tuổi, đạt Giải Nobel Văn học 2023 nhờ “những vở kịch và văn xuôi tân tiến, lên tiếng cho những điều không thể nói”.
Takít Vácvisiôtít - Côxtát Haridít - Côxtót Xteriôpulốt - Ghê-oóc-ghi Xê-phê-rít
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm sinh năm 1910, quê tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Từ thuở nhỏ, ông đã có thiên hướng yêu thích thơ ca kim cổ.
MARINA TSVETAEVA
RAINER MARIA RILKE
LOUISE GLUCK
(Nobel Văn học năm 2020)
Là tác giả bốn cuốn sách viết về Việt
Mihai Eminescu (1850 - 1889) là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Rumani. Sống nhiều ở miền núi, nhất là thuộc hai vùng Ardeal và Moldova, ông am hiểu sâu sắc về đời sống cực khổ của người dân trong vùng cũng như toàn xã hội. Thơ Eminescu trĩu nặng tình yêu thiên nhiên, con người, thấm đượm chất văn hóa dân gian của dân tộc mình.
Louise Glück - Jaroslav Seifert - Wislawa Szymborska - Pablo Neruda - Boris Pasternak
Thi sĩ Hy Lạp, 1911 - 1996, giải Nobel Văn chương năm 1979. Nỗ lực chính của thơ ông là gạt khỏi tâm thức con người những bất công phi lý và bồi đắp các yếu tố thiên nhiên thông qua sức mạnh đạo đức, để đạt được sự minh triết cao nhất có thể có trong sự biểu đạt; và cuối cùng, là để đạt đến sự tiếp cận cõi huyền nhiệm của ánh sáng, những siêu hình của mặt trời mà ông là một “người sùng bái” - một kiểu thần tượng theo định nghĩa của riêng ông. Nghệ thuật của ông mang tính đồng hiện hướng đến kỹ thuật thi ca nhằm giới thiệu cấu trúc nội tâm, điều này thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của ông.
Trần Phương Kỳ giới thiệu và dịch
LTS. Thơ ca vốn có truyền thống lâu đời. Thơ ca của các dân tộc da đen cũng mang những đặc thù ấy. Từ những nhà thơ ở xứ Akhenaton bên Ai Cập (Thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên) cho đến Gwendolyn Brooks, Leroi Jones và những giọng thơ mạnh mẽ của các nhà thơ Mỹ đương thời, chặng đường ấy tính ra đã mấy ngàn năm.
CAROLYN FORCHÉ
LTS: Tên tuổi của Ôma Khayam, nhà thơ, nhà khoa học Ba Tư thế kỷ XI đã được bạn đọc Việt Nam biết đến và yêu thích qua tập Thơ cổ Ba Tư, NXB Văn Học ấn hành năm 1984. Thơ của ông ngang tàng, độc đáo, mãnh liệt và đầy tính triết lý sâu sắc chủ yếu tập trung vào đề tài tình yêu và rượu.
BIỆN CHI LÂM
Biện Chi Lâm卞之琳 (1910 - 2000), nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu tiêu biểu của văn học Trung Quốc hiện đại. Quê gốc Giang Tô. Bút danh thường dùng: Quý Lăng.
Nghe như cổ tích chuyện cậu bé Ali Ahmad Said Esber, con nhà nông dân vùng Al Qassabina, miền tây nước Syria: từ chỗ nhà nghèo, không được tới trường, sau có cơ hội đi học và đạt trình độ tiến sĩ; từ chỗ thuở nhỏ làm thơ gởi các báo nhưng không bài nào được đăng, sau lại là người sáng lập một tạp chí chuyên về thơ và trở thành “nhà thơ vĩ đại nhất còn sống của thế giới Ả Rập” với bút danh Adonis.
JAN WAGNER (Schriftsteller)
J. Wagner sinh ngày 18/10/1971 tại Hamburg CHLB Đức, nhà thơ, nhà văn và thông dịch viên.