ĐÀM THÙY DƯƠNG
Minh họa: Nhím
Bài thơ để dành
(Khi ngoại và cậu vừa ra đi còn mình thì không viết nổi một bài thơ)
Khi nỗi đau quá lớn để viết một bài thơ
Tôi thường khóc
Khi ngón tay nhiều rũ rượi vì buồn
Tôi để dành bài thơ
Bài thơ để dành thường không dài
Tôi đã quên hết trong nước mắt
Nó có một hình hài
Trong nỗi đau màu khối và trong nhiều cơn buồn được cấu tạo từ
tôi
Đây không phải là bài thơ để dành tôi chưa bao giờ viết
Đừng hiểu nhầm
Đây chỉ là vết đọng của chia ly
Tôi đã xa một người, rồi một người, rồi sẽ thêm một người
Rồi sẽ thêm một người
mà bài thơ để dành vẫn thiếu nội dung
thiếu chữ và thiếu ý
thiếu tứ và thiếu sự mượt của ngôn từ
thiếu lý do và tiểu sử
nhưng
tôi đã no nê buồn thương và bất lực
trong mất mát và thiếu thốn,
tôi quyết định để dành bài thơ này
một bài thơ trống không
Chuyện đó buồn đến thắt lòng
kể từ lúc, xa quê hương một lần
thế giới em đến ngọc ngà hèn hạ
đâu ai cho em biết chỉ duy nhất con đường lên đỉnh núi
trăng xa và rất mờ
thành phố rộng quá
không mơ muốn nào còn bám víu đôi chân size sáu rã rời lạnh
nhạt
em đơn phương để lại bên cạnh những vóc dáng khổng lồ
nỗi buồn khẩn khoản
từ lâu đã vô tri
thành phố xa quá
biển thì mờ bàn tay em thì nhỏ
ngôn ngữ lạ thì như sấm rền thích dâng tặng cơn mưa
rồi ngày xưa cũng lạ
rồi một lần xa quê hương cũng lạ
thế giới em đến không phải là thế giới
vì duy nhất một con đường xa vợi
em phải đi
lên đỉnh núi xa vời.
(TCSH335/01-2017)
HOÀNG NGỌC QUÝ
NGUYỄN MAN KIM
NGÔ ĐÌNH HẢI
Đinh Thu - Nguyễn Văn Thanh - P.n.thường Đoan - Trần Nhuận Minh - Trọng Hướng - Lâm Anh - Đoàn Mạnh Phương - Đỗ Hàn - Trần Phương Kỳ - Nguyễn Văn Quang - Nguyễn Loan - Triệu Nguyên Phong - Kiều Trung Phương - Nguyễn Thiền Nghi - Hồ Đắc Thiếu Anh - Vạn Lộc - Nguyễn Đạt - Trường Thắng - Lê Nguyễn - Trịnh Bửu Hoài
LTS: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 có ý nghĩa lớn là làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, làm lung lay ý chí xâm lược buộc Mỹ phải “xuống thang chiến tranh”, tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa quyết định của cuộc kháng chiến.
Nguyễn Tùng Linh - Lê Thị Mây - Phạm Sông Hồng - Y Phương - Thuận Vi - Nguyễn Khắc Thạch - Đặng Thị Vân Khanh
HỒ HỒNG TRÂM
TRẦN VIỆT DŨNG
NGUYỄN THỤY KHA
Hoàng Anh Tuấn - Ngọc Tuyết - Nguyễn Thánh Ngã - Khaly Chàm - Mai Văn Hoan - Võ Văn Luyến - Vũ Kim Liên - Lê Vy Thủy
LGT: Kiều Maily sinh năm 1985 tại Pablap - làng Chăm tỉnh Ninh Thuận. Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh. Đã có thơ đăng trên đặc san Tagalau, báo Văn nghệ trẻ, báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Phong Chủ nhật, tạp chí Văn hóa Dân tộc… Một số bài thơ Kiều Maily đã được Inrasara chuyển sang tiếng Chăm. Đây là cây bút nữ có những câu thơ được cho là rất dân tộc mà không thiếu hiện đại.
NGUYỄN MINH KHIÊM
Vĩnh Nguyên - Phan Hoàng - Lê Hưng Tiến - Miên Di - Phan Thành Minh - Viên Chính - Kinh Thượng - Trần Thị Phương Lài - Văn Nhân
Nguyễn Tất Hanh, sinh ngày 17/2/1954; Quê quán: Thủy Đường, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Hội viên Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng. Với anh “Nghệ thuật là khó khăn, đòi hỏi người sáng tạo phải tốn nhiều công sức. Nó không phải cuộc dạo chơi mà là sự kiếm tìm, có thể hôm nay bội thu ngày mai lại mất mùa nhưng với tôi - sự hướng tới cái đẹp thì không bao giờ ngừng”.
LÊ THÁNH THƯ
ĐÀO DUY ANH
NGUYỄN NGỌC PHÚ
MAI VĂN PHẤN
NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN
Nguyễn Văn Thanh - Nhất Lâm - Nguyễn Thường Kham - Phan Văn Chương - Chu Lê - Trần Vạn Giã - Nguyễn Hoàng Thu - Trần Phương Kỳ - Nguyễn Tất Độ - Lưu Xông Pha