Những con hùm xám đường 14

09:36 26/12/2024
“Những con hổ xám đường 14” là biệt danh mà nguyên Thành đội trưởng Huế Thân Trọng Một dùng để tôn vinh một Trung đội bộ đội địa phương Quận 4 miền Tây Thừa Thiên do A Lơn chỉ huy.

Tháng 8/1968, ở khu vực động Mang Chang trong thế “tứ bề thọ địch”, để khỏi bị đối phương vây bắt, Thành đội trưởng đã “hạ cố” cho gọi Trung đội trưởng A Lơn đến và giao nhiệm vụ. Y lệnh, mấy ngày liền Trung đội A Lơn tổ chức đánh cầm chân, thu hút đối phương. Cuộc giải vây ngoạn mục này đến bây giờ vẫn được nhiều Cựu chiến binh nhắc đến.

Sở dĩ Thành đội trưởng Thân Trọng Một đặt trọn niềm tin vào “những con hùm xám” là vì ông biết Trung đội A Lơn trước đó hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ đường 14 mà Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao.

Trung đội A Lơn là nơi tập hợp những trai tráng của con em đồng bào Cơ Tu, một tộc người như tên gọi của nó: sống ở đầu nguồn nước, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổi tiếng với tập tục “săn cầm thú và đầu người”. Họ được Đảng và Bác Hồ vận động, giác ngộ từ bỏ tập tục cũ và theo cách mạng, đặc biệt là sau cuộc nổi dậy ở miền núi Thừa Thiên vào tháng 10/1960.

Nhanh nhẹn, dũng cảm và có sức chịu đựng dẻo dai là phẩm chất của người Cơ Tu và sau khi họ trở thành “Bộ đội Cụ Hồ” nhờ được đặc công huấn luyện, nhất là lối đánh cận chiến, cách xâm nhập, sử dụng và tự tạo vũ khí nên những phẩm chất ấy đã được phát huy trong chiến đấu nhằm chống lại đội quân xâm lược. Trong chiến đấu họ dũng mãnh như những “chúa tể sơn lâm”, lúc trinh sát, cắt đường xuyên rừng họ nhanh như sóc.

Trung úy Hồ Viết Đen


Từ một Tiểu đội được hình thành cuối năm 1960, ba năm sau - 1963 phát triển thành Trung đội do A Lơn làm Trung đội trưởng. Sau Hiệp định Paris - 1973, Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội có phiên hiệu Đại đội Ba Tơ (tức Đại đội vệ binh). Đại đội Ba Tơ có 45 cán bộ, chiến sĩ do ông Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) làm Đại đội trưởng.

Đáng chú ý, trong Đại đội này có một đơn vị chuyên bảo vệ tuyến đường vượt sông Hai Nhánh (đầu nguồn dòng Tả Trạch) mang tên Trung đội A Lơn do ông Kìm Văn Vượt làm Trung đội trưởng, mặc dù cuối năm 1969 A Lơn đã rời đơn vị, đủ thấy Tỉnh đội Thừa Thiên và đồng đội quý mến, quyến luyến ông như thế nào. Đây là hiện tượng hiếm có trong chiến tranh.

Nhận xét về thủ trưởng của mình, ông Hồ Viết Đen chỉ ngắn gọn: “Dưới sự chỉ huy của đồng chí A Lơn, đơn vị đã chiến đấu dũng cảm, đánh trận nào thắng trận đó. Đồng chí ALơn chỉ huy chiến đấu rất giỏi, không chỉ nổi tiếng trên quê hương Quận 4 (Nam Đông hiện nay) mà còn nổi tiếng ở cả Quận 3 (A Lưới hiện nay). Nhờ chỉ huy giỏi mà trải qua chiến tranh, cả Trung đội chỉ có mười người hy sinh, chủ yếu vì trúng bom và đạn pháo!”

Như chúng ta biết, năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam. Để ngăn chặn các lực lượng cách mạng từ miền núi ALưới, Nam Đông xâm nhập đồng bằng, quân đội Mỹ đã rải chất độc hóa học làm trụi lá cây, tung biệt kích, thám báo lùng sục hậu cứ, kho tàng và dùng máy bay ném bom, bắn pháo đánh phá. Để bảo vệ hậu cứ, Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao nhiệm vụ cho Trung đội vũ trang do ông Cu Tập chỉ huy bảo vệ tuyến đường 12 và Trung đội vũ trang do ông ALơn chỉ huy bảo vệ đường 14 và sông Hai Nhánh.

Ông Hồ Viết Đen nhớ lại, Trung đội A Lơn lúc đó có 30 cán bộ, chiến sĩ và được phân thành 3 Tiểu đội. Ông Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật) chỉ huy Tiểu đội I; tôi - Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 2 và ông Phạm Văn Doan (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 3. Nhờ cùng ngôn ngữ (vì có chiến sĩ không biết tiếng người Kinh) và cùng chung tập quán nên chúng tôi hiểu nhau, coi nhau như anh em; đồng lòng làm tốt nhiệm vụ mà Trung đội trưởng A Lơn phân công.

Trong chiến tranh, Trung đội A Lơn được giao nhiệm vụ bảo vệ 3 khu vực. Khu vực I từ Bắc Truồi - La Sơn; khu vực II từ dốc Công Sự - sông Hai Nhánh và khu vực III từ Trạm đường dây ông Đức đến giáp bờ sông Hữu Trạch.

Trong hai năm 1966 - 1967, Trung đội A Lơn tập trung bảo vệ tuyến đường 14, cụ thể là từ vùng Bắc Truồi - Phú Lộc cho đến sông Hai Nhánh - Hương Thủy. Lúc này Mỹ chưa rải chất độc hóa học nên đồi núi và vùng giáp ranh cây cối còn um tùm. Hàng ngày, chúng tôi cử những chiến sĩ leo trèo giỏi tìm những cây cao nhất và biến nó thành “đài quan sát”. Nhờ được trang bị ống nhòm nên khi phát hiện địch đổ quân ở đồi hay vạt rừng nào là anh em cấp tốc về báo cho đơn vị. Tùy theo số lượng máy bay (trung bình một chiếc trực thăng chở chừng 1 Tiểu đội), Trung đội trưởng A Lơn khi thì cử Tổ 3 người có lúc cử cả Tiểu đội bám sát, theo dõi và tập kích tấn công.

Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của Trung đội A Lơn, ông Hồ Viết Đen cho biết: Hôm đó là ngày 26/6/1966, tại phía bắc đèo La Hy, sau khi phát hiện 2 chiếc máy bay trực thăng Mỹ đổ quân xuống khu vực Vũng Vàng, đồng chí A Lơn đã cử Trung đội phó Kìm Văn Căng (hy sinh năm 1969 ở khe Lama) chỉ huy bám địch. Lợi dụng địch đang dựng lều bạt (pon-chos), Trung đội đã bất ngờ tấn công diệt gọn Trung đội Biệt kích. Trước khi rút còn kịp thu được 7 súng.

Để đảm bảo đánh trận nào thắng trận đó, Trung đội trưởng A Lơn luôn nhắc nhở các Tiểu đội: “Mình ít, địch nhiều. Mình chủ động, địch bị động. Muốn đánh thắng phải đợi địch dồn quân tập trung rồi bất ngờ tấn công. Có như thế mới tiêu diệt nhanh, gọn. Không chắc thắng, cương quyết không đánh”. Tuân thủ chỉ dẫn của A Lơn khi bám địch, chúng tôi chỉ đi chân đất và mặc quần đùi. Vào trận không nói thành lời mà chỉ ra ám hiệu và thường tìm các gốc cây hoặc bờ đá ẩn nấp. Có khi nằm chờ cả ngày, có lúc xuyên đêm và thông thường chúng tôi chọn lúc trời sắp sáng mới tấn công. Đối phương bất ngờ, không kịp phản ứng.

Trung úy Hồ Văn Càng (phải) và Thượng tá Nguyễn Văn Piu - Chính trị viên Huyện đội Nam Đông


Trung úy Hồ Văn Càng, quê ở Thượng Lộ. Năm 1964 gia nhập Trung đội ALơn và trở thành lính Tiểu đội 3 do ông Phạm Văn Doan làm Tiểu đội trưởng. Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của mình, ông Càng cho biết: Đó là ngày 20/7/1966, hôm ấy trời có trận mưa dông rất to. Tổ 5 người gồm tôi - Hồ Văn Càng, Kìm Văn Kăn, Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật), Kìm Văn Linh (quê Thượng Long) và Nguyễn Văn Phên (quê Hương Lâm) đang trên đường tuần tra thì phát hiện một trực thăng đổ quân xuống vùng Khe Sến - phía tây bắc đèo La Hy. Chúng tôi đeo bám. Qua ống nhòm thấy lính Mỹ đang căng pon-chos che mưa nên quyết định tấn công. Tiếp cận mục tiêu vừa lúc chúng đang nằm nghỉ trong lều, chúng tôi chặn bốn hướng và đồng loạt nổ súng. Toán Biệt kích Mỹ không còn ai sống sót. Vũ khí thu được chúng tôi ném xuống Khe Sến (sẽ về lấy sau); còn thứ gì ăn được nhặt đem về.

Đến bây giờ Hồ Văn Càng vẫn không quên chuyện “ăn kẹo Mỹ”.

Từ nguồn “chiến lợi phẩm” mang về, ông Kìm Văn Vượt tưởng đó là kẹo nên chia cho anh em mỗi người mỗi viên. Có người chưa kịp nhai đã vội nhả ra, thắc mắc hỏi: “Kẹo Mỹ răng ăn không thấy ngọt hè?”. Đúng lúc đó, y tá của Trung đội A Lơn là Trần Văn Gơn đi đến và liền hỏi: “Ăn chi rứa?”. “Kẹo!”.

Để chứng minh đó không phải là kẹo, ông Gơn liền bóc vỏ rồi bật chiếc máy quẹt châm vào “viên kẹo”. Ngọn lửa xanh lè bùng cháy. Ytá Gơn giải thích, đây là xăng đặc được cung cấp cho lính Mỹ dùng để đun nước sôi pha cà-phê hòa tan hoặc hâm nóng đồ hộp!

- Hèn chi mà môi mình nó tê tê!

Cả toán ôm nhau cười, có người ho sặc sụa, chảy ra nước mắt!

Từ giữa năm 1968 chiến sự trở nên ác liệt. Hỗ trợ cho kế hoạch “bình định nông thôn”, quân đội Mỹ huy động lực lượng đánh phá vùng núi. Sau khi thả bom có sức công phá lớn triệt phá cây cối, máy bay vận tải chuyên dụng cẩu máy xúc, máy ủi đến và chỉ trong vòng chưa đầy một tuần vừa san gạt vừa đào đắp công sự, quân đội Mỹ đã xây xong một căn cứ hỏa lực quân sự không chỉ có mặt bằng cho trực thăng đáp mà còn có cả trận địa pháo. Năm 1969 cả vùng rừng núi phía tây Thừa Thiên Huế có đến 30 căn cứ như thế. Đây chính là nơi xuất phát những cuộc hành quân đánh trực diện vào hậu cứ của ta.

Cục diện chiến trường thay đổi nên địa bàn hoạt động của Trung đội A Lơn ngày càng nới rộng. Từ chỉ đảm nhận bảo vệ vùng giáp ranh của tuyến đường 14, sau Xuân 1968 Trung đội A Lơn được Thành đội Huế giao đảm trách bảo vệ thêm tuyến hành lang từ sông Hai Nhánh đến giáp bờ năm sông Hữu Trạch. Trên tuyến hành lang này ít có căn cứ quân sự của Mỹ nhưng đây là nơi biệt kích, thám báo thường xuyên xâm nhập, đặc biệt là sau trận vây bắt bất thành của đối phương ở khu vực động Mang Chang.

Ông Hồ Viết Đen đã cung cấp bản liệt kê danh sách gồm thời gian, địa điểm diễn ra các trận đánh. Những trận đánh đó chủ yếu diễn ra ở vùng sông Hai Nhánh, dốc Công Sự, dốc Thanh Niên, dốc Chuối, chân núi Ba Xua, đồi A Pai, Khe K10, khe Vịt, khe Nghĩa, Vũng Vàng, ngã ba Trạm đường dây ông Đức (hay còn gọi là Trạm Đức)… Ngoài độc lập tác chiến, Trung đội A Lơn còn phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu, trong đó nổi bật nhất là trận chống càn quét kéo dài 5 ngày ở vùng Mụ Nú - Khe Xương Voi vào cuối hè của năm 1969. Nhận lệnh của Thành đội, Trung đội A Lơn phối hợp Tiểu đoàn 1 Đặc công Huế (Đại đội 3 do Lê Hữu Tòng chỉ huy và Đại đội 1 do Hà Công Lợi chỉ huy) bám địch. Nhờ có hỏa lực hỗ trợ, cộng với lối đánh táo bạo của bộ đội ta, do bị thương vong nặng nề nên binh sĩ Mỹ bỏ cuộc.

Cuối năm 1970 thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, binh sĩ Mỹ đã rút khỏi miền núi và lần lượt chuyển giao các căn cứ hỏa lực cho quân đội Sài Gòn. Thời điểm này Trung đội A Lơn tập trung đánh địch bảo vệ tuyến đường 14 từ Bắc Truồi đến sông Hai Nhánh.

Cũng trong bản liệt kê do ông Hồ Viết Đen cung cấp, chỉ tính trong hai năm 1971 - 1972, Trung đội A Lơn tham gia đánh 27 trận, trong đó nhiều nhất là khu vực sông Hai Nhánh (7 trận), vùng núi Bắc Truồi (5 trận), vùng La Hy (4 trận)…

Hiệp định Paris ký kết, Mỹ rút quân. Năm 1973 Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội vệ binh bảo vệ các cơ quan của tỉnh. Riêng Trung đội A Lơn vẫn đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh cho đến ngày quê hương Thừa Thiên Huế giải phóng. Và chính từ núi rừng Nam Đông - tuyến đường 14, tháng 3/1973, Quân giải phóng đã bất ngờ đánh tan tuyến phòng ngự của đối phương ở Phú Lộc, mở màn cho chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng toàn thắng.

Đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre (ở giữa là anh Nguyễn Ngọc Huề con ông A Lơn)


Trở lại Nam Đông lần này chúng tôi thật sự mừng vui trước những thay đổi ngoạn mục của đô thị vùng núi. Từ thị trấn Khe Tre lên Thượng Long - Thượng Quảng trước đây quả là xa xôi nhưng nay đã trở nên thuận lợi và gần gũi. Văn minh đô thị, nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đã hiện hữu qua từng góc phố, lối xóm, ngôi nhà và ẩn mình sau nó là đời sống của người dân ngày mỗi sung túc và khấm khá. Nhiều gia đình đã sắm được xe hơi, con em họ nhiều người trở thành kỹ sư, bác sĩ.

Nam Đông - quê hương của “những con hùm xám đường 14” năm xưa đã thật sự đổi thay; tên tuổi của những vị có công bảo vệ, làm rạng danh vùng đất này đã được ghi nhận và tên đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre là minh chứng.

Tuy vậy chúng tôi vẫn băn khoăn một điều: đơn vị bảo vệ tuyến đường 12 của Quận 3 - A Lưới đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ tranh nhân dân. Còn Trung đội A Lơn và vị chỉ huy huyền thoại A Lơn bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh của Quận 4 - Nam Đông đến nay vẫn chưa được vinh danh, trong khi tên tuổi và chiến công của ông vẫn hằn trong tâm trí nhiều người?

Dưới đây, xin trích một số nhận định quan trọng:

- “Sau Xuân 1968, nhân dân xã Dương Hòa đã gọi khu vực đồi Củ Nưa (ở thôn Buông Tằm) là đồi A Lơn vì tại khu vực này Trung đội A Lơn phối hợp với Đội Biệt động Hương Thủy đã ngăn chặn, đẩy lùi cuộc xâm nhập của biệt kích, thám báo Mỹ! (Cựu chiến binh Phan Văn Đình, hiện sống ở Thủy Bằng - Hương Thủy).

- “Ở miền núi, các đơn vị vũ trang đường 12 do đồng chí Cu Tập chỉ huy, đường 14 do đồng chí Ác Lơn (ghi sai, chính xác là A Lơn - TG) chỉ huy đã vượt qua vô vàn gian khổ, thiếu thốn kiên cường chiến đấu, bảo vệ đường dây thông suốt, liên hoàn từ miền núi về đồng bằng, bảo vệ vững chắc căn cứ địa cách mạng, phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang, chính trị của khu, tỉnh, thành phố và các huyện đồng bằng”. (Thừa Thiên Huế: Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb. Chính trị quốc gia, 1999).

- “Ta đánh Biệt kích khắp nơi. Đội diệt Mỹ ở đường 12, đội diệt Mỹ ở đường 14 vừa bám Mỹ để diệt vừa bảo vệ các tuyến giao thông, liên lạc của các huyện và thành phố đi qua đường 12, đường 14, qua sông Hai Nhánh và tích cực tham gia cuộc tấn công nổi dậy Xuân 1968”. (Nguyễn Vạn: Đời người cách mạng. Nxb. Thuận Hóa, 2000).

B.T
(TCSH430/12-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.