Tháng 8/1968, ở khu vực động Mang Chang trong thế “tứ bề thọ địch”, để khỏi bị đối phương vây bắt, Thành đội trưởng đã “hạ cố” cho gọi Trung đội trưởng A Lơn đến và giao nhiệm vụ. Y lệnh, mấy ngày liền Trung đội A Lơn tổ chức đánh cầm chân, thu hút đối phương. Cuộc giải vây ngoạn mục này đến bây giờ vẫn được nhiều Cựu chiến binh nhắc đến.
Sở dĩ Thành đội trưởng Thân Trọng Một đặt trọn niềm tin vào “những con hùm xám” là vì ông biết Trung đội A Lơn trước đó hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ đường 14 mà Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao.
Trung đội A Lơn là nơi tập hợp những trai tráng của con em đồng bào Cơ Tu, một tộc người như tên gọi của nó: sống ở đầu nguồn nước, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổi tiếng với tập tục “săn cầm thú và đầu người”. Họ được Đảng và Bác Hồ vận động, giác ngộ từ bỏ tập tục cũ và theo cách mạng, đặc biệt là sau cuộc nổi dậy ở miền núi Thừa Thiên vào tháng 10/1960.
Nhanh nhẹn, dũng cảm và có sức chịu đựng dẻo dai là phẩm chất của người Cơ Tu và sau khi họ trở thành “Bộ đội Cụ Hồ” nhờ được đặc công huấn luyện, nhất là lối đánh cận chiến, cách xâm nhập, sử dụng và tự tạo vũ khí nên những phẩm chất ấy đã được phát huy trong chiến đấu nhằm chống lại đội quân xâm lược. Trong chiến đấu họ dũng mãnh như những “chúa tể sơn lâm”, lúc trinh sát, cắt đường xuyên rừng họ nhanh như sóc.
|
Trung úy Hồ Viết Đen |
Từ một Tiểu đội được hình thành cuối năm 1960, ba năm sau - 1963 phát triển thành Trung đội do A Lơn làm Trung đội trưởng. Sau Hiệp định Paris - 1973, Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội có phiên hiệu Đại đội Ba Tơ (tức Đại đội vệ binh). Đại đội Ba Tơ có 45 cán bộ, chiến sĩ do ông Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) làm Đại đội trưởng.
Đáng chú ý, trong Đại đội này có một đơn vị chuyên bảo vệ tuyến đường vượt sông Hai Nhánh (đầu nguồn dòng Tả Trạch) mang tên Trung đội A Lơn do ông Kìm Văn Vượt làm Trung đội trưởng, mặc dù cuối năm 1969 A Lơn đã rời đơn vị, đủ thấy Tỉnh đội Thừa Thiên và đồng đội quý mến, quyến luyến ông như thế nào. Đây là hiện tượng hiếm có trong chiến tranh.
Nhận xét về thủ trưởng của mình, ông Hồ Viết Đen chỉ ngắn gọn: “Dưới sự chỉ huy của đồng chí A Lơn, đơn vị đã chiến đấu dũng cảm, đánh trận nào thắng trận đó. Đồng chí ALơn chỉ huy chiến đấu rất giỏi, không chỉ nổi tiếng trên quê hương Quận 4 (Nam Đông hiện nay) mà còn nổi tiếng ở cả Quận 3 (A Lưới hiện nay). Nhờ chỉ huy giỏi mà trải qua chiến tranh, cả Trung đội chỉ có mười người hy sinh, chủ yếu vì trúng bom và đạn pháo!”
Như chúng ta biết, năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam. Để ngăn chặn các lực lượng cách mạng từ miền núi ALưới, Nam Đông xâm nhập đồng bằng, quân đội Mỹ đã rải chất độc hóa học làm trụi lá cây, tung biệt kích, thám báo lùng sục hậu cứ, kho tàng và dùng máy bay ném bom, bắn pháo đánh phá. Để bảo vệ hậu cứ, Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao nhiệm vụ cho Trung đội vũ trang do ông Cu Tập chỉ huy bảo vệ tuyến đường 12 và Trung đội vũ trang do ông ALơn chỉ huy bảo vệ đường 14 và sông Hai Nhánh.
Ông Hồ Viết Đen nhớ lại, Trung đội A Lơn lúc đó có 30 cán bộ, chiến sĩ và được phân thành 3 Tiểu đội. Ông Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật) chỉ huy Tiểu đội I; tôi - Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 2 và ông Phạm Văn Doan (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 3. Nhờ cùng ngôn ngữ (vì có chiến sĩ không biết tiếng người Kinh) và cùng chung tập quán nên chúng tôi hiểu nhau, coi nhau như anh em; đồng lòng làm tốt nhiệm vụ mà Trung đội trưởng A Lơn phân công.
Trong chiến tranh, Trung đội A Lơn được giao nhiệm vụ bảo vệ 3 khu vực. Khu vực I từ Bắc Truồi - La Sơn; khu vực II từ dốc Công Sự - sông Hai Nhánh và khu vực III từ Trạm đường dây ông Đức đến giáp bờ sông Hữu Trạch.
Trong hai năm 1966 - 1967, Trung đội A Lơn tập trung bảo vệ tuyến đường 14, cụ thể là từ vùng Bắc Truồi - Phú Lộc cho đến sông Hai Nhánh - Hương Thủy. Lúc này Mỹ chưa rải chất độc hóa học nên đồi núi và vùng giáp ranh cây cối còn um tùm. Hàng ngày, chúng tôi cử những chiến sĩ leo trèo giỏi tìm những cây cao nhất và biến nó thành “đài quan sát”. Nhờ được trang bị ống nhòm nên khi phát hiện địch đổ quân ở đồi hay vạt rừng nào là anh em cấp tốc về báo cho đơn vị. Tùy theo số lượng máy bay (trung bình một chiếc trực thăng chở chừng 1 Tiểu đội), Trung đội trưởng A Lơn khi thì cử Tổ 3 người có lúc cử cả Tiểu đội bám sát, theo dõi và tập kích tấn công.
Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của Trung đội A Lơn, ông Hồ Viết Đen cho biết: Hôm đó là ngày 26/6/1966, tại phía bắc đèo La Hy, sau khi phát hiện 2 chiếc máy bay trực thăng Mỹ đổ quân xuống khu vực Vũng Vàng, đồng chí A Lơn đã cử Trung đội phó Kìm Văn Căng (hy sinh năm 1969 ở khe Lama) chỉ huy bám địch. Lợi dụng địch đang dựng lều bạt (pon-chos), Trung đội đã bất ngờ tấn công diệt gọn Trung đội Biệt kích. Trước khi rút còn kịp thu được 7 súng.
Để đảm bảo đánh trận nào thắng trận đó, Trung đội trưởng A Lơn luôn nhắc nhở các Tiểu đội: “Mình ít, địch nhiều. Mình chủ động, địch bị động. Muốn đánh thắng phải đợi địch dồn quân tập trung rồi bất ngờ tấn công. Có như thế mới tiêu diệt nhanh, gọn. Không chắc thắng, cương quyết không đánh”. Tuân thủ chỉ dẫn của A Lơn khi bám địch, chúng tôi chỉ đi chân đất và mặc quần đùi. Vào trận không nói thành lời mà chỉ ra ám hiệu và thường tìm các gốc cây hoặc bờ đá ẩn nấp. Có khi nằm chờ cả ngày, có lúc xuyên đêm và thông thường chúng tôi chọn lúc trời sắp sáng mới tấn công. Đối phương bất ngờ, không kịp phản ứng.
|
Trung úy Hồ Văn Càng (phải) và Thượng tá Nguyễn Văn Piu - Chính trị viên Huyện đội Nam Đông |
Trung úy Hồ Văn Càng, quê ở Thượng Lộ. Năm 1964 gia nhập Trung đội ALơn và trở thành lính Tiểu đội 3 do ông Phạm Văn Doan làm Tiểu đội trưởng. Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của mình, ông Càng cho biết: Đó là ngày 20/7/1966, hôm ấy trời có trận mưa dông rất to. Tổ 5 người gồm tôi - Hồ Văn Càng, Kìm Văn Kăn, Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật), Kìm Văn Linh (quê Thượng Long) và Nguyễn Văn Phên (quê Hương Lâm) đang trên đường tuần tra thì phát hiện một trực thăng đổ quân xuống vùng Khe Sến - phía tây bắc đèo La Hy. Chúng tôi đeo bám. Qua ống nhòm thấy lính Mỹ đang căng pon-chos che mưa nên quyết định tấn công. Tiếp cận mục tiêu vừa lúc chúng đang nằm nghỉ trong lều, chúng tôi chặn bốn hướng và đồng loạt nổ súng. Toán Biệt kích Mỹ không còn ai sống sót. Vũ khí thu được chúng tôi ném xuống Khe Sến (sẽ về lấy sau); còn thứ gì ăn được nhặt đem về.
Đến bây giờ Hồ Văn Càng vẫn không quên chuyện “ăn kẹo Mỹ”.
Từ nguồn “chiến lợi phẩm” mang về, ông Kìm Văn Vượt tưởng đó là kẹo nên chia cho anh em mỗi người mỗi viên. Có người chưa kịp nhai đã vội nhả ra, thắc mắc hỏi: “Kẹo Mỹ răng ăn không thấy ngọt hè?”. Đúng lúc đó, y tá của Trung đội A Lơn là Trần Văn Gơn đi đến và liền hỏi: “Ăn chi rứa?”. “Kẹo!”.
Để chứng minh đó không phải là kẹo, ông Gơn liền bóc vỏ rồi bật chiếc máy quẹt châm vào “viên kẹo”. Ngọn lửa xanh lè bùng cháy. Ytá Gơn giải thích, đây là xăng đặc được cung cấp cho lính Mỹ dùng để đun nước sôi pha cà-phê hòa tan hoặc hâm nóng đồ hộp!
- Hèn chi mà môi mình nó tê tê!
Cả toán ôm nhau cười, có người ho sặc sụa, chảy ra nước mắt!
Từ giữa năm 1968 chiến sự trở nên ác liệt. Hỗ trợ cho kế hoạch “bình định nông thôn”, quân đội Mỹ huy động lực lượng đánh phá vùng núi. Sau khi thả bom có sức công phá lớn triệt phá cây cối, máy bay vận tải chuyên dụng cẩu máy xúc, máy ủi đến và chỉ trong vòng chưa đầy một tuần vừa san gạt vừa đào đắp công sự, quân đội Mỹ đã xây xong một căn cứ hỏa lực quân sự không chỉ có mặt bằng cho trực thăng đáp mà còn có cả trận địa pháo. Năm 1969 cả vùng rừng núi phía tây Thừa Thiên Huế có đến 30 căn cứ như thế. Đây chính là nơi xuất phát những cuộc hành quân đánh trực diện vào hậu cứ của ta.
Cục diện chiến trường thay đổi nên địa bàn hoạt động của Trung đội A Lơn ngày càng nới rộng. Từ chỉ đảm nhận bảo vệ vùng giáp ranh của tuyến đường 14, sau Xuân 1968 Trung đội A Lơn được Thành đội Huế giao đảm trách bảo vệ thêm tuyến hành lang từ sông Hai Nhánh đến giáp bờ năm sông Hữu Trạch. Trên tuyến hành lang này ít có căn cứ quân sự của Mỹ nhưng đây là nơi biệt kích, thám báo thường xuyên xâm nhập, đặc biệt là sau trận vây bắt bất thành của đối phương ở khu vực động Mang Chang.
Ông Hồ Viết Đen đã cung cấp bản liệt kê danh sách gồm thời gian, địa điểm diễn ra các trận đánh. Những trận đánh đó chủ yếu diễn ra ở vùng sông Hai Nhánh, dốc Công Sự, dốc Thanh Niên, dốc Chuối, chân núi Ba Xua, đồi A Pai, Khe K10, khe Vịt, khe Nghĩa, Vũng Vàng, ngã ba Trạm đường dây ông Đức (hay còn gọi là Trạm Đức)… Ngoài độc lập tác chiến, Trung đội A Lơn còn phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu, trong đó nổi bật nhất là trận chống càn quét kéo dài 5 ngày ở vùng Mụ Nú - Khe Xương Voi vào cuối hè của năm 1969. Nhận lệnh của Thành đội, Trung đội A Lơn phối hợp Tiểu đoàn 1 Đặc công Huế (Đại đội 3 do Lê Hữu Tòng chỉ huy và Đại đội 1 do Hà Công Lợi chỉ huy) bám địch. Nhờ có hỏa lực hỗ trợ, cộng với lối đánh táo bạo của bộ đội ta, do bị thương vong nặng nề nên binh sĩ Mỹ bỏ cuộc.
Cuối năm 1970 thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, binh sĩ Mỹ đã rút khỏi miền núi và lần lượt chuyển giao các căn cứ hỏa lực cho quân đội Sài Gòn. Thời điểm này Trung đội A Lơn tập trung đánh địch bảo vệ tuyến đường 14 từ Bắc Truồi đến sông Hai Nhánh.
Cũng trong bản liệt kê do ông Hồ Viết Đen cung cấp, chỉ tính trong hai năm 1971 - 1972, Trung đội A Lơn tham gia đánh 27 trận, trong đó nhiều nhất là khu vực sông Hai Nhánh (7 trận), vùng núi Bắc Truồi (5 trận), vùng La Hy (4 trận)…
Hiệp định Paris ký kết, Mỹ rút quân. Năm 1973 Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội vệ binh bảo vệ các cơ quan của tỉnh. Riêng Trung đội A Lơn vẫn đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh cho đến ngày quê hương Thừa Thiên Huế giải phóng. Và chính từ núi rừng Nam Đông - tuyến đường 14, tháng 3/1973, Quân giải phóng đã bất ngờ đánh tan tuyến phòng ngự của đối phương ở Phú Lộc, mở màn cho chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng toàn thắng.
|
Đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre (ở giữa là anh Nguyễn Ngọc Huề con ông A Lơn) |
Trở lại Nam Đông lần này chúng tôi thật sự mừng vui trước những thay đổi ngoạn mục của đô thị vùng núi. Từ thị trấn Khe Tre lên Thượng Long - Thượng Quảng trước đây quả là xa xôi nhưng nay đã trở nên thuận lợi và gần gũi. Văn minh đô thị, nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đã hiện hữu qua từng góc phố, lối xóm, ngôi nhà và ẩn mình sau nó là đời sống của người dân ngày mỗi sung túc và khấm khá. Nhiều gia đình đã sắm được xe hơi, con em họ nhiều người trở thành kỹ sư, bác sĩ.
Nam Đông - quê hương của “những con hùm xám đường 14” năm xưa đã thật sự đổi thay; tên tuổi của những vị có công bảo vệ, làm rạng danh vùng đất này đã được ghi nhận và tên đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre là minh chứng.
Tuy vậy chúng tôi vẫn băn khoăn một điều: đơn vị bảo vệ tuyến đường 12 của Quận 3 - A Lưới đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ tranh nhân dân. Còn Trung đội A Lơn và vị chỉ huy huyền thoại A Lơn bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh của Quận 4 - Nam Đông đến nay vẫn chưa được vinh danh, trong khi tên tuổi và chiến công của ông vẫn hằn trong tâm trí nhiều người?
Dưới đây, xin trích một số nhận định quan trọng:
- “Sau Xuân 1968, nhân dân xã Dương Hòa đã gọi khu vực đồi Củ Nưa (ở thôn Buông Tằm) là đồi A Lơn vì tại khu vực này Trung đội A Lơn phối hợp với Đội Biệt động Hương Thủy đã ngăn chặn, đẩy lùi cuộc xâm nhập của biệt kích, thám báo Mỹ! (Cựu chiến binh Phan Văn Đình, hiện sống ở Thủy Bằng - Hương Thủy).
- “Ở miền núi, các đơn vị vũ trang đường 12 do đồng chí Cu Tập chỉ huy, đường 14 do đồng chí Ác Lơn (ghi sai, chính xác là A Lơn - TG) chỉ huy đã vượt qua vô vàn gian khổ, thiếu thốn kiên cường chiến đấu, bảo vệ đường dây thông suốt, liên hoàn từ miền núi về đồng bằng, bảo vệ vững chắc căn cứ địa cách mạng, phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang, chính trị của khu, tỉnh, thành phố và các huyện đồng bằng”. (Thừa Thiên Huế: Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb. Chính trị quốc gia, 1999).
- “Ta đánh Biệt kích khắp nơi. Đội diệt Mỹ ở đường 12, đội diệt Mỹ ở đường 14 vừa bám Mỹ để diệt vừa bảo vệ các tuyến giao thông, liên lạc của các huyện và thành phố đi qua đường 12, đường 14, qua sông Hai Nhánh và tích cực tham gia cuộc tấn công nổi dậy Xuân 1968”. (Nguyễn Vạn: Đời người cách mạng. Nxb. Thuận Hóa, 2000).
B.T
(TCSH430/12-2024)
TRẦN BẢO ĐỊNH
Thương nhớ chú Tư Sâm.
Phải nói ngay rằng, hồi trai trẻ, tôi không thích giới văn chương, chỉ thích giới văn nghệ. Chẳng hiểu vì sao?
BÙI KIM CHI
Thời thiếu nữ của tôi gắn liền với Thành nội. Nơi này tôi đã sinh ra và lớn lên. Tôi yêu Thành nội. Thành nội đã đi vào cuộc đời tôi với nhiều sắc màu.
THANH TÙNG
Kinh đô Huế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bầu trời u ám của xã hội phong kiến Việt Nam lúc mãn chiều xế bóng đã phát ra tín hiệu của một vì sao NGUYỄN TẤT THÀNH.
LÊ HUY MẬU
Anh Điềm, bấy giờ còn là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa TW, nhưng đã sắp nghỉ. Anh ra thăm Côn Đảo. Trong đoàn tháp tùng anh ra Côn Đảo của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu có tôi.
PHẠM HỮU THU
1.
Cuối năm 1989, tôi cùng Trần Phá Nhạc ghé 47 C Duy Tân, Quận 3 - TP. HCM thăm anh Trịnh Công Sơn.
LGT: Hiện không nhiều tài liệu miêu tả miêu tả về đời sống, sinh hoạt văn hóa, xã hội của Huế vào thập niên 30 - 40 của thế kỷ trước. Bản dịch dưới đây là trích đoạn từ cuốn nhật kí Adieu Saigon, Au revoir Hanoi (Chào Hà Nội, tạm biệt Sài Gòn - Nhật ký kì nghỉ năm 1943) của Claudie Beaucarnot.
DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
Hồi Ký
Ba mươi tháng tư. Tôi đang dùng bữa tối cùng gia đình thì chợt nghe tivi thông báo ông Thanh Nghị chết.
PHƯỚC VĨNH
Hình ảnh Hồ Chủ tịch là nguồn cảm hứng sáng tạo đối với nhiều nghệ sĩ tạo hình Việt Nam.
BỬU Ý
Đinh Cường đã vĩnh biệt tất cả chúng ta! Một nghệ sĩ trong cái ý nghĩa toàn diện, cao đẹp nhất, một nghệ sĩ làm lan tỏa nghệ thuật ra chung quanh mình cho gia đình, cho bạn bè, cho cả đời sống, khiến anh trở thành tâm điểm cho những cuộc gặp mặt, những buổi hội hè.
PHAN NGỌC MINH
1. Năm 2004, tôi triển lãm tranh tại Foyer du Vietnam - Paris, do ông Võ Văn Thận, là nhà thơ kiêm phụ trách quán bảo trợ. Tại đây tôi đã gặp gỡ được nhiều bạn bè Việt Pháp, trong không khí thân thiện ấm áp…
PHAN NGỌC MINH
1. Năm 2004, tôi triển lãm tranh tại Foyer du Vietnam - Paris, do ông Võ Văn Thận, là nhà thơ kiêm phụ trách quán bảo trợ. Tại đây tôi đã gặp gỡ được nhiều bạn bè Việt Pháp, trong không khí thân thiện ấm áp…
VÕ SƠN TRUNG
Trong gần một thế kỷ qua, bạn đọc Việt Nam đã tiếp cận khá nhiều tác phẩm của đại thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore, trong đó có hàng chục tập thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói, tiểu luận, và thậm chí cả hồi ký của thi hào…
Lần đầu nói chuyện trực tiếp với họa sĩ Đinh Cường tại xe cà phê Tôn trước nhà thờ Tôn Nhân Phủ ở Thành Nội, tôi: “Thưa thầy!” Anh khoát tay: “Úi dà, bày đặt. Chỗ bạn bè anh em với nhau cả, thầy bà chi nghe đỗ mệt!”
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Thật vui mừng và xúc động khi cầm trên tay tập sách Rừng hát của cố nhạc sĩ Trương Minh Phương do gia đình tặng. Tuyển tập dày 1.328 trang, chia làm 4 phần, tập hợp những sáng tác, nghiên cứu văn học nghệ thuật trong cuộc đời của nhạc sĩ.
VÕ TRIỀU SƠN
Ngay sau Lễ Quốc khánh 2/9/1945 ra mắt nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công cuộc kiến thiết đất nước được bắt đầu, trong đó có văn hóa.
VÕ TRIỀU SƠN
Ngay sau Lễ Quốc khánh 2/9/1945 ra mắt nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công cuộc kiến thiết đất nước được bắt đầu, trong đó có văn hóa. Những ngày tháng đầu tiên của các hoạt động văn hóa nghệ thuật dưới chính thể Việt Nam mới diễn ra thật sôi nổi. Sau đây là lược thuật một số hoạt động trong mùa đông 1945, cách đây tròn 70 năm.
LỮ QUỲNH
"Vì tôi là người Huế và đã một thời tuổi trẻ nặng nợ với sông Hương suốt những mùa hè nóng bức ngủ đò nên tôi nhìn sông Hương luôn luôn với đôi mắt của người bạn.
Sáng ngày 27-11-2015 tôi đến nghĩa trang Père Lachaise để tiễn anh đến nơi yên nghỉ cuối cùng, sau khi hỏa táng, anh sẽ nằm trong ngôi mộ gia đình, đây cũng là nơi nhạc sĩ Chopin yên giấc ngàn thu nhưng trái tim thì trở về quê hương Ba Lan. Nguyễn Thiên Đạo cũng thế anh nằm ở Paris nhưng trái tim và tâm hồn anh từ lúc sống đến lúc chết luôn luôn hướng về Việt Nam.
HOÀI MỤC
Vừa giải phóng xong ba tôi đưa cả gia đình từ thành phố về quê. Cuộc sống vất vả nhưng quá nhiều cái mới lạ nên đầu óc con nít của tôi khi mô cũng thấy háo hức.
NGUYỄN KHẮC VIỆN
Trích hồi ký
- 75 rồi đấy, ông ơi! Viết hồi ký đi. Chuối chín cây rụng lúc nào không biết đấy!