Những con hùm xám đường 14

09:36 26/12/2024
“Những con hổ xám đường 14” là biệt danh mà nguyên Thành đội trưởng Huế Thân Trọng Một dùng để tôn vinh một Trung đội bộ đội địa phương Quận 4 miền Tây Thừa Thiên do A Lơn chỉ huy.

Tháng 8/1968, ở khu vực động Mang Chang trong thế “tứ bề thọ địch”, để khỏi bị đối phương vây bắt, Thành đội trưởng đã “hạ cố” cho gọi Trung đội trưởng A Lơn đến và giao nhiệm vụ. Y lệnh, mấy ngày liền Trung đội A Lơn tổ chức đánh cầm chân, thu hút đối phương. Cuộc giải vây ngoạn mục này đến bây giờ vẫn được nhiều Cựu chiến binh nhắc đến.

Sở dĩ Thành đội trưởng Thân Trọng Một đặt trọn niềm tin vào “những con hùm xám” là vì ông biết Trung đội A Lơn trước đó hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ đường 14 mà Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao.

Trung đội A Lơn là nơi tập hợp những trai tráng của con em đồng bào Cơ Tu, một tộc người như tên gọi của nó: sống ở đầu nguồn nước, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổi tiếng với tập tục “săn cầm thú và đầu người”. Họ được Đảng và Bác Hồ vận động, giác ngộ từ bỏ tập tục cũ và theo cách mạng, đặc biệt là sau cuộc nổi dậy ở miền núi Thừa Thiên vào tháng 10/1960.

Nhanh nhẹn, dũng cảm và có sức chịu đựng dẻo dai là phẩm chất của người Cơ Tu và sau khi họ trở thành “Bộ đội Cụ Hồ” nhờ được đặc công huấn luyện, nhất là lối đánh cận chiến, cách xâm nhập, sử dụng và tự tạo vũ khí nên những phẩm chất ấy đã được phát huy trong chiến đấu nhằm chống lại đội quân xâm lược. Trong chiến đấu họ dũng mãnh như những “chúa tể sơn lâm”, lúc trinh sát, cắt đường xuyên rừng họ nhanh như sóc.

Trung úy Hồ Viết Đen


Từ một Tiểu đội được hình thành cuối năm 1960, ba năm sau - 1963 phát triển thành Trung đội do A Lơn làm Trung đội trưởng. Sau Hiệp định Paris - 1973, Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội có phiên hiệu Đại đội Ba Tơ (tức Đại đội vệ binh). Đại đội Ba Tơ có 45 cán bộ, chiến sĩ do ông Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) làm Đại đội trưởng.

Đáng chú ý, trong Đại đội này có một đơn vị chuyên bảo vệ tuyến đường vượt sông Hai Nhánh (đầu nguồn dòng Tả Trạch) mang tên Trung đội A Lơn do ông Kìm Văn Vượt làm Trung đội trưởng, mặc dù cuối năm 1969 A Lơn đã rời đơn vị, đủ thấy Tỉnh đội Thừa Thiên và đồng đội quý mến, quyến luyến ông như thế nào. Đây là hiện tượng hiếm có trong chiến tranh.

Nhận xét về thủ trưởng của mình, ông Hồ Viết Đen chỉ ngắn gọn: “Dưới sự chỉ huy của đồng chí A Lơn, đơn vị đã chiến đấu dũng cảm, đánh trận nào thắng trận đó. Đồng chí ALơn chỉ huy chiến đấu rất giỏi, không chỉ nổi tiếng trên quê hương Quận 4 (Nam Đông hiện nay) mà còn nổi tiếng ở cả Quận 3 (A Lưới hiện nay). Nhờ chỉ huy giỏi mà trải qua chiến tranh, cả Trung đội chỉ có mười người hy sinh, chủ yếu vì trúng bom và đạn pháo!”

Như chúng ta biết, năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam. Để ngăn chặn các lực lượng cách mạng từ miền núi ALưới, Nam Đông xâm nhập đồng bằng, quân đội Mỹ đã rải chất độc hóa học làm trụi lá cây, tung biệt kích, thám báo lùng sục hậu cứ, kho tàng và dùng máy bay ném bom, bắn pháo đánh phá. Để bảo vệ hậu cứ, Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao nhiệm vụ cho Trung đội vũ trang do ông Cu Tập chỉ huy bảo vệ tuyến đường 12 và Trung đội vũ trang do ông ALơn chỉ huy bảo vệ đường 14 và sông Hai Nhánh.

Ông Hồ Viết Đen nhớ lại, Trung đội A Lơn lúc đó có 30 cán bộ, chiến sĩ và được phân thành 3 Tiểu đội. Ông Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật) chỉ huy Tiểu đội I; tôi - Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 2 và ông Phạm Văn Doan (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 3. Nhờ cùng ngôn ngữ (vì có chiến sĩ không biết tiếng người Kinh) và cùng chung tập quán nên chúng tôi hiểu nhau, coi nhau như anh em; đồng lòng làm tốt nhiệm vụ mà Trung đội trưởng A Lơn phân công.

Trong chiến tranh, Trung đội A Lơn được giao nhiệm vụ bảo vệ 3 khu vực. Khu vực I từ Bắc Truồi - La Sơn; khu vực II từ dốc Công Sự - sông Hai Nhánh và khu vực III từ Trạm đường dây ông Đức đến giáp bờ sông Hữu Trạch.

Trong hai năm 1966 - 1967, Trung đội A Lơn tập trung bảo vệ tuyến đường 14, cụ thể là từ vùng Bắc Truồi - Phú Lộc cho đến sông Hai Nhánh - Hương Thủy. Lúc này Mỹ chưa rải chất độc hóa học nên đồi núi và vùng giáp ranh cây cối còn um tùm. Hàng ngày, chúng tôi cử những chiến sĩ leo trèo giỏi tìm những cây cao nhất và biến nó thành “đài quan sát”. Nhờ được trang bị ống nhòm nên khi phát hiện địch đổ quân ở đồi hay vạt rừng nào là anh em cấp tốc về báo cho đơn vị. Tùy theo số lượng máy bay (trung bình một chiếc trực thăng chở chừng 1 Tiểu đội), Trung đội trưởng A Lơn khi thì cử Tổ 3 người có lúc cử cả Tiểu đội bám sát, theo dõi và tập kích tấn công.

Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của Trung đội A Lơn, ông Hồ Viết Đen cho biết: Hôm đó là ngày 26/6/1966, tại phía bắc đèo La Hy, sau khi phát hiện 2 chiếc máy bay trực thăng Mỹ đổ quân xuống khu vực Vũng Vàng, đồng chí A Lơn đã cử Trung đội phó Kìm Văn Căng (hy sinh năm 1969 ở khe Lama) chỉ huy bám địch. Lợi dụng địch đang dựng lều bạt (pon-chos), Trung đội đã bất ngờ tấn công diệt gọn Trung đội Biệt kích. Trước khi rút còn kịp thu được 7 súng.

Để đảm bảo đánh trận nào thắng trận đó, Trung đội trưởng A Lơn luôn nhắc nhở các Tiểu đội: “Mình ít, địch nhiều. Mình chủ động, địch bị động. Muốn đánh thắng phải đợi địch dồn quân tập trung rồi bất ngờ tấn công. Có như thế mới tiêu diệt nhanh, gọn. Không chắc thắng, cương quyết không đánh”. Tuân thủ chỉ dẫn của A Lơn khi bám địch, chúng tôi chỉ đi chân đất và mặc quần đùi. Vào trận không nói thành lời mà chỉ ra ám hiệu và thường tìm các gốc cây hoặc bờ đá ẩn nấp. Có khi nằm chờ cả ngày, có lúc xuyên đêm và thông thường chúng tôi chọn lúc trời sắp sáng mới tấn công. Đối phương bất ngờ, không kịp phản ứng.

Trung úy Hồ Văn Càng (phải) và Thượng tá Nguyễn Văn Piu - Chính trị viên Huyện đội Nam Đông


Trung úy Hồ Văn Càng, quê ở Thượng Lộ. Năm 1964 gia nhập Trung đội ALơn và trở thành lính Tiểu đội 3 do ông Phạm Văn Doan làm Tiểu đội trưởng. Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của mình, ông Càng cho biết: Đó là ngày 20/7/1966, hôm ấy trời có trận mưa dông rất to. Tổ 5 người gồm tôi - Hồ Văn Càng, Kìm Văn Kăn, Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật), Kìm Văn Linh (quê Thượng Long) và Nguyễn Văn Phên (quê Hương Lâm) đang trên đường tuần tra thì phát hiện một trực thăng đổ quân xuống vùng Khe Sến - phía tây bắc đèo La Hy. Chúng tôi đeo bám. Qua ống nhòm thấy lính Mỹ đang căng pon-chos che mưa nên quyết định tấn công. Tiếp cận mục tiêu vừa lúc chúng đang nằm nghỉ trong lều, chúng tôi chặn bốn hướng và đồng loạt nổ súng. Toán Biệt kích Mỹ không còn ai sống sót. Vũ khí thu được chúng tôi ném xuống Khe Sến (sẽ về lấy sau); còn thứ gì ăn được nhặt đem về.

Đến bây giờ Hồ Văn Càng vẫn không quên chuyện “ăn kẹo Mỹ”.

Từ nguồn “chiến lợi phẩm” mang về, ông Kìm Văn Vượt tưởng đó là kẹo nên chia cho anh em mỗi người mỗi viên. Có người chưa kịp nhai đã vội nhả ra, thắc mắc hỏi: “Kẹo Mỹ răng ăn không thấy ngọt hè?”. Đúng lúc đó, y tá của Trung đội A Lơn là Trần Văn Gơn đi đến và liền hỏi: “Ăn chi rứa?”. “Kẹo!”.

Để chứng minh đó không phải là kẹo, ông Gơn liền bóc vỏ rồi bật chiếc máy quẹt châm vào “viên kẹo”. Ngọn lửa xanh lè bùng cháy. Ytá Gơn giải thích, đây là xăng đặc được cung cấp cho lính Mỹ dùng để đun nước sôi pha cà-phê hòa tan hoặc hâm nóng đồ hộp!

- Hèn chi mà môi mình nó tê tê!

Cả toán ôm nhau cười, có người ho sặc sụa, chảy ra nước mắt!

Từ giữa năm 1968 chiến sự trở nên ác liệt. Hỗ trợ cho kế hoạch “bình định nông thôn”, quân đội Mỹ huy động lực lượng đánh phá vùng núi. Sau khi thả bom có sức công phá lớn triệt phá cây cối, máy bay vận tải chuyên dụng cẩu máy xúc, máy ủi đến và chỉ trong vòng chưa đầy một tuần vừa san gạt vừa đào đắp công sự, quân đội Mỹ đã xây xong một căn cứ hỏa lực quân sự không chỉ có mặt bằng cho trực thăng đáp mà còn có cả trận địa pháo. Năm 1969 cả vùng rừng núi phía tây Thừa Thiên Huế có đến 30 căn cứ như thế. Đây chính là nơi xuất phát những cuộc hành quân đánh trực diện vào hậu cứ của ta.

Cục diện chiến trường thay đổi nên địa bàn hoạt động của Trung đội A Lơn ngày càng nới rộng. Từ chỉ đảm nhận bảo vệ vùng giáp ranh của tuyến đường 14, sau Xuân 1968 Trung đội A Lơn được Thành đội Huế giao đảm trách bảo vệ thêm tuyến hành lang từ sông Hai Nhánh đến giáp bờ năm sông Hữu Trạch. Trên tuyến hành lang này ít có căn cứ quân sự của Mỹ nhưng đây là nơi biệt kích, thám báo thường xuyên xâm nhập, đặc biệt là sau trận vây bắt bất thành của đối phương ở khu vực động Mang Chang.

Ông Hồ Viết Đen đã cung cấp bản liệt kê danh sách gồm thời gian, địa điểm diễn ra các trận đánh. Những trận đánh đó chủ yếu diễn ra ở vùng sông Hai Nhánh, dốc Công Sự, dốc Thanh Niên, dốc Chuối, chân núi Ba Xua, đồi A Pai, Khe K10, khe Vịt, khe Nghĩa, Vũng Vàng, ngã ba Trạm đường dây ông Đức (hay còn gọi là Trạm Đức)… Ngoài độc lập tác chiến, Trung đội A Lơn còn phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu, trong đó nổi bật nhất là trận chống càn quét kéo dài 5 ngày ở vùng Mụ Nú - Khe Xương Voi vào cuối hè của năm 1969. Nhận lệnh của Thành đội, Trung đội A Lơn phối hợp Tiểu đoàn 1 Đặc công Huế (Đại đội 3 do Lê Hữu Tòng chỉ huy và Đại đội 1 do Hà Công Lợi chỉ huy) bám địch. Nhờ có hỏa lực hỗ trợ, cộng với lối đánh táo bạo của bộ đội ta, do bị thương vong nặng nề nên binh sĩ Mỹ bỏ cuộc.

Cuối năm 1970 thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, binh sĩ Mỹ đã rút khỏi miền núi và lần lượt chuyển giao các căn cứ hỏa lực cho quân đội Sài Gòn. Thời điểm này Trung đội A Lơn tập trung đánh địch bảo vệ tuyến đường 14 từ Bắc Truồi đến sông Hai Nhánh.

Cũng trong bản liệt kê do ông Hồ Viết Đen cung cấp, chỉ tính trong hai năm 1971 - 1972, Trung đội A Lơn tham gia đánh 27 trận, trong đó nhiều nhất là khu vực sông Hai Nhánh (7 trận), vùng núi Bắc Truồi (5 trận), vùng La Hy (4 trận)…

Hiệp định Paris ký kết, Mỹ rút quân. Năm 1973 Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội vệ binh bảo vệ các cơ quan của tỉnh. Riêng Trung đội A Lơn vẫn đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh cho đến ngày quê hương Thừa Thiên Huế giải phóng. Và chính từ núi rừng Nam Đông - tuyến đường 14, tháng 3/1973, Quân giải phóng đã bất ngờ đánh tan tuyến phòng ngự của đối phương ở Phú Lộc, mở màn cho chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng toàn thắng.

Đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre (ở giữa là anh Nguyễn Ngọc Huề con ông A Lơn)


Trở lại Nam Đông lần này chúng tôi thật sự mừng vui trước những thay đổi ngoạn mục của đô thị vùng núi. Từ thị trấn Khe Tre lên Thượng Long - Thượng Quảng trước đây quả là xa xôi nhưng nay đã trở nên thuận lợi và gần gũi. Văn minh đô thị, nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đã hiện hữu qua từng góc phố, lối xóm, ngôi nhà và ẩn mình sau nó là đời sống của người dân ngày mỗi sung túc và khấm khá. Nhiều gia đình đã sắm được xe hơi, con em họ nhiều người trở thành kỹ sư, bác sĩ.

Nam Đông - quê hương của “những con hùm xám đường 14” năm xưa đã thật sự đổi thay; tên tuổi của những vị có công bảo vệ, làm rạng danh vùng đất này đã được ghi nhận và tên đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre là minh chứng.

Tuy vậy chúng tôi vẫn băn khoăn một điều: đơn vị bảo vệ tuyến đường 12 của Quận 3 - A Lưới đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ tranh nhân dân. Còn Trung đội A Lơn và vị chỉ huy huyền thoại A Lơn bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh của Quận 4 - Nam Đông đến nay vẫn chưa được vinh danh, trong khi tên tuổi và chiến công của ông vẫn hằn trong tâm trí nhiều người?

Dưới đây, xin trích một số nhận định quan trọng:

- “Sau Xuân 1968, nhân dân xã Dương Hòa đã gọi khu vực đồi Củ Nưa (ở thôn Buông Tằm) là đồi A Lơn vì tại khu vực này Trung đội A Lơn phối hợp với Đội Biệt động Hương Thủy đã ngăn chặn, đẩy lùi cuộc xâm nhập của biệt kích, thám báo Mỹ! (Cựu chiến binh Phan Văn Đình, hiện sống ở Thủy Bằng - Hương Thủy).

- “Ở miền núi, các đơn vị vũ trang đường 12 do đồng chí Cu Tập chỉ huy, đường 14 do đồng chí Ác Lơn (ghi sai, chính xác là A Lơn - TG) chỉ huy đã vượt qua vô vàn gian khổ, thiếu thốn kiên cường chiến đấu, bảo vệ đường dây thông suốt, liên hoàn từ miền núi về đồng bằng, bảo vệ vững chắc căn cứ địa cách mạng, phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang, chính trị của khu, tỉnh, thành phố và các huyện đồng bằng”. (Thừa Thiên Huế: Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb. Chính trị quốc gia, 1999).

- “Ta đánh Biệt kích khắp nơi. Đội diệt Mỹ ở đường 12, đội diệt Mỹ ở đường 14 vừa bám Mỹ để diệt vừa bảo vệ các tuyến giao thông, liên lạc của các huyện và thành phố đi qua đường 12, đường 14, qua sông Hai Nhánh và tích cực tham gia cuộc tấn công nổi dậy Xuân 1968”. (Nguyễn Vạn: Đời người cách mạng. Nxb. Thuận Hóa, 2000).

B.T
(TCSH430/12-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Cuối năm 1961, tôi rời Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao về làm biên tập viên chương trình Tiếng thơ Đài Tiếng nói Việt Nam. Chương trình này nằm trong Phòng Văn học do nhà văn Trọng Hứa làm Trưởng phòng.

  • KIMO

    Mười Cents, một đồng xu nhỏ nhất, mỏng nhất được gọi là “dime” và đồng xu nầy được đúc với chất liệu 90 phần trăm bạc và 10 phần trăm đồng như đồng xu năm cents và 25 cents nhưng lại khác với đồng xu một cent.

  • HƯỚNG TỚI 70 NĂM THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ

    TÔ NHUẬN VỸ

  • HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ

    NGUYỄN KHẮC PHÊ

  • KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ

    NGÔ KHA

    LTS: Dưới đây là một ghi chép của cố nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Kha về những ngày đầu đoàn quân giải phóng về thành Huế dịp 26/3/1975. Rất ngắn gọn, song đoạn ghi chép đã gợi lại cho chúng ta không khí sôi nổi, nô nức những ngày đầu.

  • Lời nói đầu: Mỗi khi về nhà ở Quỳnh Mai, tôi luôn hình dung thấy Cha tôi đang ngồi đâu đó quanh bàn làm việc của mình. Trong một lần về nhà gần đây, sau khi thắp hương cho Cha, chờ hương tàn bèn mang máy đánh chữ, là vật hết sức gần gũi đã gắn bó với Cha tôi cho tới khi mất, để lau chùi, làm vệ sinh.

  • Những năm 1973-1976, đến Paris  tôi bắt đầu công việc sinh viên, vừa làm vừa học là ký tên và đánh số giùm tranh litho cho  Họa sĩ Lê Bá Đảng.

  • SƠN TÙNG  

    Một ngày giáp Tết Canh Dần - tháng 2/1950, gặp dịp đi qua làng Sen, tôi ghé vào thăm nơi đã lưu lại những kỷ niệm tuổi thơ của Người.

  • L.T.S: Vương Đình Quang nguyên là thư ký tòa soạn báo "Tiếng Dân" do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ biên, vừa là thư ký riêng của nhà yêu nước Phan Bội Châu, chuyên giúp Phan Bội Châu hoàn chỉnh những văn bản tiếng Việt trong mười lăm năm cuối đời sống và sáng tác tại Huế. Bài này trích từ "Hồi ký về cụ Phan và cụ Huỳnh" do chính tác giả viết tại quê hương Nam Đàn Nghệ Tĩnh khi tác giả vừa tròn 80 tuổi (1987).

  • NGUYỄN NGUYÊN

    Tháng 6-1966, ở Sài Gòn, giữa cái rừng báo chí mấy chục tờ báo hằng ngày, báo tháng, báo tuần, bỗng mọc thêm một từ bán nguyệt san: Tin Văn.

  • Cứ vào những ngày cuối năm, khi làm báo tết, trong câu chuyện cà phê sáng, làng báo Sài Gòn hay nhắc đến họa sĩ Choé, tác giả những bức tranh biếm - hí họa từng không thể thiếu trên khắp các mặt báo. Có thể nói, cùng với nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Bùi Giáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, họa sĩ Ớt - Huỳnh Bá Thành, danh ca Út Trà Ôn, danh hài Văn Hường,… họa sĩ tuổi Mùi - Choé là một trong những “quái kiệt” của Sài Gòn.


  • (Lược thuật những hoạt động nhân kỷ niệm 5 năm Sông Hương)

  • (Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ - Nguyên Tổng biên tập tạp chí Sông Hương trong lễ kỷ niệm 5 năm)

  •  (SHO). Huế đầu đông. Mưa lâm thâm,dai dẳng. Mưa kéo theo các cơn lạnh se lòng. Cái lạnh không đậm đà như miền Bắc không đột ngột như miền Nam, nó âm thầm âm thầm đủ để làm xao xuyến  nổi lòng người xa quê... Ngồi một mình trong phòng trọ, con chợt nhớ, một mùa mưa, xa rồi...

  • (SHO). Mùa mưa cứ thế đến, những nỗi nhớ trong tôi lại từng cái từng cái ùa về, thổi qua và tôi chợt nhận ra trong lúc ngây ngốc tôi đã bỏ quên nhiều thứ như vây; bỏ quên những người thân yêu trong nỗi nhớ của tôi, ở trong kỉ niệm đã qua và giờ tôi nhớ ra cảm giác hạnh phúc, vui vẻ khi ở bên họ, để từ đó tôi quý trọng hơn nữa những giây phút bên cạnh những người mà tôi yêu thương.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Sau một thời gian bị bệnh hiểm nghèo, ca sĩ Hà Thanh đã qua đời vào lúc 19 giờ 30 ngày 1 tháng 1 năm 2014 (giờ Boston) tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ.

  • ĐẶNG VĂN NGỮ
                    Hồi ký

    Cha tôi lúc còn nhỏ tự học chữ nho có tiếng là giỏi, nhưng đến tuổi đi thi thì thực dân Pháp đã bãi bỏ các kỳ thi chữ nho.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Lớp sinh viên chúng tôi tốt nghiệp Khoa Văn - Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, đúng vào thời điểm Mỹ đánh phá miền Bắc và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kêu gọi con em miền Nam đang ở miền Bắc hãy trở về chiến đấu cho quê hương.

  • Giải phóng quân Huế với phong trào Nam tiến 

    PHẠM HỮU THU

  • Sau ba năm đi giang hồ Trung Quốc. Nguyễn Du trở về, ở tại Thăng Long từ cuối năm 1790 cho đến năm 1794. Đó là ba năm «Chữ tình chốc đã ba năm vẹn», lưu lại trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương.