Những con hùm xám đường 14

09:36 26/12/2024
“Những con hổ xám đường 14” là biệt danh mà nguyên Thành đội trưởng Huế Thân Trọng Một dùng để tôn vinh một Trung đội bộ đội địa phương Quận 4 miền Tây Thừa Thiên do A Lơn chỉ huy.

Tháng 8/1968, ở khu vực động Mang Chang trong thế “tứ bề thọ địch”, để khỏi bị đối phương vây bắt, Thành đội trưởng đã “hạ cố” cho gọi Trung đội trưởng A Lơn đến và giao nhiệm vụ. Y lệnh, mấy ngày liền Trung đội A Lơn tổ chức đánh cầm chân, thu hút đối phương. Cuộc giải vây ngoạn mục này đến bây giờ vẫn được nhiều Cựu chiến binh nhắc đến.

Sở dĩ Thành đội trưởng Thân Trọng Một đặt trọn niềm tin vào “những con hùm xám” là vì ông biết Trung đội A Lơn trước đó hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ đường 14 mà Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao.

Trung đội A Lơn là nơi tập hợp những trai tráng của con em đồng bào Cơ Tu, một tộc người như tên gọi của nó: sống ở đầu nguồn nước, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổi tiếng với tập tục “săn cầm thú và đầu người”. Họ được Đảng và Bác Hồ vận động, giác ngộ từ bỏ tập tục cũ và theo cách mạng, đặc biệt là sau cuộc nổi dậy ở miền núi Thừa Thiên vào tháng 10/1960.

Nhanh nhẹn, dũng cảm và có sức chịu đựng dẻo dai là phẩm chất của người Cơ Tu và sau khi họ trở thành “Bộ đội Cụ Hồ” nhờ được đặc công huấn luyện, nhất là lối đánh cận chiến, cách xâm nhập, sử dụng và tự tạo vũ khí nên những phẩm chất ấy đã được phát huy trong chiến đấu nhằm chống lại đội quân xâm lược. Trong chiến đấu họ dũng mãnh như những “chúa tể sơn lâm”, lúc trinh sát, cắt đường xuyên rừng họ nhanh như sóc.

Trung úy Hồ Viết Đen


Từ một Tiểu đội được hình thành cuối năm 1960, ba năm sau - 1963 phát triển thành Trung đội do A Lơn làm Trung đội trưởng. Sau Hiệp định Paris - 1973, Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội có phiên hiệu Đại đội Ba Tơ (tức Đại đội vệ binh). Đại đội Ba Tơ có 45 cán bộ, chiến sĩ do ông Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) làm Đại đội trưởng.

Đáng chú ý, trong Đại đội này có một đơn vị chuyên bảo vệ tuyến đường vượt sông Hai Nhánh (đầu nguồn dòng Tả Trạch) mang tên Trung đội A Lơn do ông Kìm Văn Vượt làm Trung đội trưởng, mặc dù cuối năm 1969 A Lơn đã rời đơn vị, đủ thấy Tỉnh đội Thừa Thiên và đồng đội quý mến, quyến luyến ông như thế nào. Đây là hiện tượng hiếm có trong chiến tranh.

Nhận xét về thủ trưởng của mình, ông Hồ Viết Đen chỉ ngắn gọn: “Dưới sự chỉ huy của đồng chí A Lơn, đơn vị đã chiến đấu dũng cảm, đánh trận nào thắng trận đó. Đồng chí ALơn chỉ huy chiến đấu rất giỏi, không chỉ nổi tiếng trên quê hương Quận 4 (Nam Đông hiện nay) mà còn nổi tiếng ở cả Quận 3 (A Lưới hiện nay). Nhờ chỉ huy giỏi mà trải qua chiến tranh, cả Trung đội chỉ có mười người hy sinh, chủ yếu vì trúng bom và đạn pháo!”

Như chúng ta biết, năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam. Để ngăn chặn các lực lượng cách mạng từ miền núi ALưới, Nam Đông xâm nhập đồng bằng, quân đội Mỹ đã rải chất độc hóa học làm trụi lá cây, tung biệt kích, thám báo lùng sục hậu cứ, kho tàng và dùng máy bay ném bom, bắn pháo đánh phá. Để bảo vệ hậu cứ, Tỉnh đội Thừa Thiên đã giao nhiệm vụ cho Trung đội vũ trang do ông Cu Tập chỉ huy bảo vệ tuyến đường 12 và Trung đội vũ trang do ông ALơn chỉ huy bảo vệ đường 14 và sông Hai Nhánh.

Ông Hồ Viết Đen nhớ lại, Trung đội A Lơn lúc đó có 30 cán bộ, chiến sĩ và được phân thành 3 Tiểu đội. Ông Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật) chỉ huy Tiểu đội I; tôi - Hồ Viết Đen (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 2 và ông Phạm Văn Doan (quê Thượng Long) chỉ huy Tiểu đội 3. Nhờ cùng ngôn ngữ (vì có chiến sĩ không biết tiếng người Kinh) và cùng chung tập quán nên chúng tôi hiểu nhau, coi nhau như anh em; đồng lòng làm tốt nhiệm vụ mà Trung đội trưởng A Lơn phân công.

Trong chiến tranh, Trung đội A Lơn được giao nhiệm vụ bảo vệ 3 khu vực. Khu vực I từ Bắc Truồi - La Sơn; khu vực II từ dốc Công Sự - sông Hai Nhánh và khu vực III từ Trạm đường dây ông Đức đến giáp bờ sông Hữu Trạch.

Trong hai năm 1966 - 1967, Trung đội A Lơn tập trung bảo vệ tuyến đường 14, cụ thể là từ vùng Bắc Truồi - Phú Lộc cho đến sông Hai Nhánh - Hương Thủy. Lúc này Mỹ chưa rải chất độc hóa học nên đồi núi và vùng giáp ranh cây cối còn um tùm. Hàng ngày, chúng tôi cử những chiến sĩ leo trèo giỏi tìm những cây cao nhất và biến nó thành “đài quan sát”. Nhờ được trang bị ống nhòm nên khi phát hiện địch đổ quân ở đồi hay vạt rừng nào là anh em cấp tốc về báo cho đơn vị. Tùy theo số lượng máy bay (trung bình một chiếc trực thăng chở chừng 1 Tiểu đội), Trung đội trưởng A Lơn khi thì cử Tổ 3 người có lúc cử cả Tiểu đội bám sát, theo dõi và tập kích tấn công.

Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của Trung đội A Lơn, ông Hồ Viết Đen cho biết: Hôm đó là ngày 26/6/1966, tại phía bắc đèo La Hy, sau khi phát hiện 2 chiếc máy bay trực thăng Mỹ đổ quân xuống khu vực Vũng Vàng, đồng chí A Lơn đã cử Trung đội phó Kìm Văn Căng (hy sinh năm 1969 ở khe Lama) chỉ huy bám địch. Lợi dụng địch đang dựng lều bạt (pon-chos), Trung đội đã bất ngờ tấn công diệt gọn Trung đội Biệt kích. Trước khi rút còn kịp thu được 7 súng.

Để đảm bảo đánh trận nào thắng trận đó, Trung đội trưởng A Lơn luôn nhắc nhở các Tiểu đội: “Mình ít, địch nhiều. Mình chủ động, địch bị động. Muốn đánh thắng phải đợi địch dồn quân tập trung rồi bất ngờ tấn công. Có như thế mới tiêu diệt nhanh, gọn. Không chắc thắng, cương quyết không đánh”. Tuân thủ chỉ dẫn của A Lơn khi bám địch, chúng tôi chỉ đi chân đất và mặc quần đùi. Vào trận không nói thành lời mà chỉ ra ám hiệu và thường tìm các gốc cây hoặc bờ đá ẩn nấp. Có khi nằm chờ cả ngày, có lúc xuyên đêm và thông thường chúng tôi chọn lúc trời sắp sáng mới tấn công. Đối phương bất ngờ, không kịp phản ứng.

Trung úy Hồ Văn Càng (phải) và Thượng tá Nguyễn Văn Piu - Chính trị viên Huyện đội Nam Đông


Trung úy Hồ Văn Càng, quê ở Thượng Lộ. Năm 1964 gia nhập Trung đội ALơn và trở thành lính Tiểu đội 3 do ông Phạm Văn Doan làm Tiểu đội trưởng. Kể về trận đánh Mỹ đầu tiên của mình, ông Càng cho biết: Đó là ngày 20/7/1966, hôm ấy trời có trận mưa dông rất to. Tổ 5 người gồm tôi - Hồ Văn Càng, Kìm Văn Kăn, Kìm Văn Vượt (quê Thượng Nhật), Kìm Văn Linh (quê Thượng Long) và Nguyễn Văn Phên (quê Hương Lâm) đang trên đường tuần tra thì phát hiện một trực thăng đổ quân xuống vùng Khe Sến - phía tây bắc đèo La Hy. Chúng tôi đeo bám. Qua ống nhòm thấy lính Mỹ đang căng pon-chos che mưa nên quyết định tấn công. Tiếp cận mục tiêu vừa lúc chúng đang nằm nghỉ trong lều, chúng tôi chặn bốn hướng và đồng loạt nổ súng. Toán Biệt kích Mỹ không còn ai sống sót. Vũ khí thu được chúng tôi ném xuống Khe Sến (sẽ về lấy sau); còn thứ gì ăn được nhặt đem về.

Đến bây giờ Hồ Văn Càng vẫn không quên chuyện “ăn kẹo Mỹ”.

Từ nguồn “chiến lợi phẩm” mang về, ông Kìm Văn Vượt tưởng đó là kẹo nên chia cho anh em mỗi người mỗi viên. Có người chưa kịp nhai đã vội nhả ra, thắc mắc hỏi: “Kẹo Mỹ răng ăn không thấy ngọt hè?”. Đúng lúc đó, y tá của Trung đội A Lơn là Trần Văn Gơn đi đến và liền hỏi: “Ăn chi rứa?”. “Kẹo!”.

Để chứng minh đó không phải là kẹo, ông Gơn liền bóc vỏ rồi bật chiếc máy quẹt châm vào “viên kẹo”. Ngọn lửa xanh lè bùng cháy. Ytá Gơn giải thích, đây là xăng đặc được cung cấp cho lính Mỹ dùng để đun nước sôi pha cà-phê hòa tan hoặc hâm nóng đồ hộp!

- Hèn chi mà môi mình nó tê tê!

Cả toán ôm nhau cười, có người ho sặc sụa, chảy ra nước mắt!

Từ giữa năm 1968 chiến sự trở nên ác liệt. Hỗ trợ cho kế hoạch “bình định nông thôn”, quân đội Mỹ huy động lực lượng đánh phá vùng núi. Sau khi thả bom có sức công phá lớn triệt phá cây cối, máy bay vận tải chuyên dụng cẩu máy xúc, máy ủi đến và chỉ trong vòng chưa đầy một tuần vừa san gạt vừa đào đắp công sự, quân đội Mỹ đã xây xong một căn cứ hỏa lực quân sự không chỉ có mặt bằng cho trực thăng đáp mà còn có cả trận địa pháo. Năm 1969 cả vùng rừng núi phía tây Thừa Thiên Huế có đến 30 căn cứ như thế. Đây chính là nơi xuất phát những cuộc hành quân đánh trực diện vào hậu cứ của ta.

Cục diện chiến trường thay đổi nên địa bàn hoạt động của Trung đội A Lơn ngày càng nới rộng. Từ chỉ đảm nhận bảo vệ vùng giáp ranh của tuyến đường 14, sau Xuân 1968 Trung đội A Lơn được Thành đội Huế giao đảm trách bảo vệ thêm tuyến hành lang từ sông Hai Nhánh đến giáp bờ năm sông Hữu Trạch. Trên tuyến hành lang này ít có căn cứ quân sự của Mỹ nhưng đây là nơi biệt kích, thám báo thường xuyên xâm nhập, đặc biệt là sau trận vây bắt bất thành của đối phương ở khu vực động Mang Chang.

Ông Hồ Viết Đen đã cung cấp bản liệt kê danh sách gồm thời gian, địa điểm diễn ra các trận đánh. Những trận đánh đó chủ yếu diễn ra ở vùng sông Hai Nhánh, dốc Công Sự, dốc Thanh Niên, dốc Chuối, chân núi Ba Xua, đồi A Pai, Khe K10, khe Vịt, khe Nghĩa, Vũng Vàng, ngã ba Trạm đường dây ông Đức (hay còn gọi là Trạm Đức)… Ngoài độc lập tác chiến, Trung đội A Lơn còn phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu, trong đó nổi bật nhất là trận chống càn quét kéo dài 5 ngày ở vùng Mụ Nú - Khe Xương Voi vào cuối hè của năm 1969. Nhận lệnh của Thành đội, Trung đội A Lơn phối hợp Tiểu đoàn 1 Đặc công Huế (Đại đội 3 do Lê Hữu Tòng chỉ huy và Đại đội 1 do Hà Công Lợi chỉ huy) bám địch. Nhờ có hỏa lực hỗ trợ, cộng với lối đánh táo bạo của bộ đội ta, do bị thương vong nặng nề nên binh sĩ Mỹ bỏ cuộc.

Cuối năm 1970 thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, binh sĩ Mỹ đã rút khỏi miền núi và lần lượt chuyển giao các căn cứ hỏa lực cho quân đội Sài Gòn. Thời điểm này Trung đội A Lơn tập trung đánh địch bảo vệ tuyến đường 14 từ Bắc Truồi đến sông Hai Nhánh.

Cũng trong bản liệt kê do ông Hồ Viết Đen cung cấp, chỉ tính trong hai năm 1971 - 1972, Trung đội A Lơn tham gia đánh 27 trận, trong đó nhiều nhất là khu vực sông Hai Nhánh (7 trận), vùng núi Bắc Truồi (5 trận), vùng La Hy (4 trận)…

Hiệp định Paris ký kết, Mỹ rút quân. Năm 1973 Trung đội A Lơn phát triển thành Đại đội vệ binh bảo vệ các cơ quan của tỉnh. Riêng Trung đội A Lơn vẫn đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh cho đến ngày quê hương Thừa Thiên Huế giải phóng. Và chính từ núi rừng Nam Đông - tuyến đường 14, tháng 3/1973, Quân giải phóng đã bất ngờ đánh tan tuyến phòng ngự của đối phương ở Phú Lộc, mở màn cho chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng toàn thắng.

Đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre (ở giữa là anh Nguyễn Ngọc Huề con ông A Lơn)


Trở lại Nam Đông lần này chúng tôi thật sự mừng vui trước những thay đổi ngoạn mục của đô thị vùng núi. Từ thị trấn Khe Tre lên Thượng Long - Thượng Quảng trước đây quả là xa xôi nhưng nay đã trở nên thuận lợi và gần gũi. Văn minh đô thị, nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đã hiện hữu qua từng góc phố, lối xóm, ngôi nhà và ẩn mình sau nó là đời sống của người dân ngày mỗi sung túc và khấm khá. Nhiều gia đình đã sắm được xe hơi, con em họ nhiều người trở thành kỹ sư, bác sĩ.

Nam Đông - quê hương của “những con hùm xám đường 14” năm xưa đã thật sự đổi thay; tên tuổi của những vị có công bảo vệ, làm rạng danh vùng đất này đã được ghi nhận và tên đường A Lơn ở thị trấn Khe Tre là minh chứng.

Tuy vậy chúng tôi vẫn băn khoăn một điều: đơn vị bảo vệ tuyến đường 12 của Quận 3 - A Lưới đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ tranh nhân dân. Còn Trung đội A Lơn và vị chỉ huy huyền thoại A Lơn bảo vệ tuyến đường 14 và sông Hai Nhánh của Quận 4 - Nam Đông đến nay vẫn chưa được vinh danh, trong khi tên tuổi và chiến công của ông vẫn hằn trong tâm trí nhiều người?

Dưới đây, xin trích một số nhận định quan trọng:

- “Sau Xuân 1968, nhân dân xã Dương Hòa đã gọi khu vực đồi Củ Nưa (ở thôn Buông Tằm) là đồi A Lơn vì tại khu vực này Trung đội A Lơn phối hợp với Đội Biệt động Hương Thủy đã ngăn chặn, đẩy lùi cuộc xâm nhập của biệt kích, thám báo Mỹ! (Cựu chiến binh Phan Văn Đình, hiện sống ở Thủy Bằng - Hương Thủy).

- “Ở miền núi, các đơn vị vũ trang đường 12 do đồng chí Cu Tập chỉ huy, đường 14 do đồng chí Ác Lơn (ghi sai, chính xác là A Lơn - TG) chỉ huy đã vượt qua vô vàn gian khổ, thiếu thốn kiên cường chiến đấu, bảo vệ đường dây thông suốt, liên hoàn từ miền núi về đồng bằng, bảo vệ vững chắc căn cứ địa cách mạng, phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang, chính trị của khu, tỉnh, thành phố và các huyện đồng bằng”. (Thừa Thiên Huế: Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb. Chính trị quốc gia, 1999).

- “Ta đánh Biệt kích khắp nơi. Đội diệt Mỹ ở đường 12, đội diệt Mỹ ở đường 14 vừa bám Mỹ để diệt vừa bảo vệ các tuyến giao thông, liên lạc của các huyện và thành phố đi qua đường 12, đường 14, qua sông Hai Nhánh và tích cực tham gia cuộc tấn công nổi dậy Xuân 1968”. (Nguyễn Vạn: Đời người cách mạng. Nxb. Thuận Hóa, 2000).

B.T
(TCSH430/12-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).