ĐINH VĂN TUẤN
Giữa lúc các nhà nghiên cứu sử học đang sôi nổi, tranh biện về cuộc tìm kiếm di tích lăng mộ Quang Trung nhưng vẫn chưa tìm ra bằng chứng xác thật thì bất ngờ trên Tạp chí Xưa & Nay năm 2005(1), hai nhà nghiên cứu Hồng Phi và Hương Nao đã phát hiện và công bố một bài thơ chữ Hán Kiến Quang Trung linh cữu được chép trong Nam hành tạp vịnh tập 2 của bản chép tay Liên Khê di tập do danh sĩ Thanh Hóa là Lê Ôn Phủ(2), hiệu là Liên Khê (1771 - 1846) trước tác.
Vua Quang Trung qua nét vẽ của họa sĩ triều Thanh - Ảnh: wiki
|
Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán của tác giả Lê Triệu, vừa được hai nhà nghiên cứu Hồng Phi và Hương Nao sưu tầm và công bố - Ảnh: internet |
Vấn đề quan trọng mà các tác giả nêu ra chính là ở chữ thứ nhất của câu thơ thứ tư đó là chữ “Khuân”: “…trong chuyến Nam hành. Lê Triệu đã đến thăm phần mộ Quang Trung, như vậy ông là người biết rõ vị trí lăng Quang Trung ở một ngọn núi có tên là “Khuân Sơn”. Trong nguyên bản “Khuân” là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương”. Trong phần chú thích số 3 của bài viết, tác giả đã thử xác định: “Khuân Sơn, theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (Nxb. Thuận Hóa, Huế 1992) chép: “Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thương Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía Tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía Bắc, đi theo về phía Tây có thể đến đất người Man Thượng” (tr. 133)”. Sau khi bài viết trên được công bố, ngay lập tức đã được giới sử học quan tâm đặc biệt, làm dấy nên một niềm hy vọng và cuộc truy tìm mới về chữ nghĩa của “Khuân” cũng như về vị trí của núi “Khuân Sơn” liên quan đến lăng mộ Quang Trung. Điển hình là ngày 8/2/2006, Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế đã tổ chức một cuộc tọa đàm “Hướng đi tìm lăng mộ Quang Trung” và có mời hai tác giả Hồng Phi - Hương Nao tham dự. Nhưng cuối cùng, các nhà nghiên cứu đã không đi đến kết luận nào vì chữ của bài thơ viết thảo khó đọc, Trần Viết Điền phủ nhận cách đọc “Khuân” và đọc là “Ngụy” hay Lê Nguyễn Lưu đọc là “Xước”… nhưng chẳng có cách đọc nào đủ sức thuyết phục cả! Cho đến nay, ẩn tự trong bài thơ của Lê Ôn Phủ vẫn chưa được giải mã. Chính vì vậy, bài viết này sẽ cố gắng làm sáng tỏ một nghi vấn về văn tự cổ cũng như xét lại khả năng có liên quan gì đến lăng mộ Quang Trung hay không?
Trong nguyên bản chép tay (xem hình), chữ thứ nhất của câu thơ thứ tư được viết theo dạng thảo thư so với tự dạng, những cách đọc trước như khuân 麇 hay ngụy 魏… tuy hao hao mặt chữ nhưng cũng không thật chính xác và ý nghĩa không khớp với văn mạch. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, chúng tôi cho rằng đây chính là chữ Ly 驪 được viết theo lối thảo thư, vậy sẽ là Ly Sơn 驪山. Ly Sơn chính là lăng mộ của Tần Thủy Hoàng(3), sau khi nhà Tần sụp đổ, lăng mộ của vua Tần đã bị Hạng Vũ cho đào phá để lấy châu báu(4). Ly sơn đối ứng Hàm dã (Hàm Đan) ở câu trên, cũng là nơi quân Tần đại bại trước liên quân 3 nước Ngụy, Triệu, Sở vào thời Chiến Quốc(5). Như vậy Ly sơn, Hàm Đan dùng theo điển tích Trung Quốc và 2 câu thơ 3, 4 sẽ như sau: “邯 野 毒 流 千 萬 骨, Hàm dã độc lưu thiên vạn cốt, 驪 山 禍 在 百 年 墳, Ly sơn họa tại bách niên phần” (Đất Hàm Đan, nỗi căm hận còn mãi nơi muôn vàn hài cốt, Núi Ly Sơn lại gây họa đến phần mộ trăm năm).
Hiển nhiên, Lê Ôn Phủ chỉ viết về Ly Sơn 驪山 chứ không hề nói gì về địa danh lăng mộ vua Quang Trung như Hồng Phi - Hương Nao đã ngộ nhận là Khuân Sơn hay Thương Sơn! Chúng tôi đã tìm ra dị bản chép tay Liên Khê di tập 蓮 溪遺集(6) với lời đề tựa có niên đại Tự Đức ngũ niên Nhâm Tý (1852), trong đó có bài thơ Kiến Quang Trung linh quỹ 見光中灵櫃 được chép tay rõ ràng ở trong tập Liên Khê nam hành tạp vịnh 蓮 溪南行雜詠, trang 49 (xem hình). Ở bài tựa Liên Khê nam hành tạp vịnh của Lê Ôn Phủ thấy dòng lạc khoản: “Hoàng triều Gia Long Ất Sửu niên 皇 朝嘉隆 乙丑年” (Gia Long năm 1805). Chúng tôi đã đối chiếu lại bài thơ do Hồng Phi - Hương Nao công bố thì thấy chữ thứ nhất ở câu thơ thứ tư được người sao chép viết chính xác là (驪). Do đó có thể khẳng định chỉ có LY SƠN (lăng mộ vua Tần) chứ không có địa danh về lăng mộ Quang Trung và nhân tiện cũng xin nêu thêm một số điểm cần hiệu chỉnh: Chữ cuối cùng trong đề bài không phải là chữ cữu 柩 mà là chữ quỹ 櫃 nên đề bài sẽ là Kiến Quang Trung linh quỹ 見光中灵櫃, linh quỹ 灵櫃 nói về cái cũi đựng hài cốt của vua Quang Trung sau khi bị Gia Long quật mộ trả thù, lăng nhục (1802). Nếu là linh cữu 灵柩 sẽ hiểu là thi hài (mới chết chưa chôn) của Nguyễn Huệ còn nằm trong áo quan và như vậy không phù hợp với văn cảnh khi nhà thơ Lê Ôn Phủ ngậm ngùi than: “光 景 一 般 成齏粉, Quang cảnh nhất ban thành tê phấn” (Quang cảnh nay đều đã trở thành cát bụi), cũng ở câu này chữ cuối cùng Hồng Phi - Hương Nao đã đọc là mị là không đúng, xét mặt chữ nó phải là chữ tê dị thể của 齏(7), nhưng ở đây âm “tê” lại không đúng niêm luật bằng trắc! Người viết cho rằng chắc hẳn khi sao chép di cảo của Liên Khê, người chép đã sơ xuất viết lầm trật tự của 2 chữ tê phấn 齏粉 ra phấn tê 粉齏, trong Hán văn, tê phấn 齏粉 (hay 齑粉) có nghĩa là bụi nhỏ(8), âm nghĩa phù hợp văn cảnh, niêm luật câu thứ 7. Ở câu thứ 5, chữ thứ 3, 4 Hồng Phi - Hương Nao đọc là chỉ chỉ cũng không đúng mặt chữ Hán, đúng ra phải là mẫn mẫn 泯泯. Theo Khang Hy tự điển(9): “泯泯,猶茫茫也, mẫn mẫn, do mang mang dã”: mẫn mẫn còn có nghĩa là mờ mịt.
Sau đây chúng tôi xin chép lại bài thơ (phiên âm, dịch nghĩa) như sau:
![]() |
Bài thơ chép tay Kiến Quang Trung linh quỹ trong tập Liên Khê nam hành tạp vịnh |
見 光 中 灵 櫃
Kiến Quang Trung linh quỹ
卄 年 叱 吒 走(10) 風 雲
Chấp niên sất trá tẩu phong vân
如 此 英 雄 古 罕 聞
Như thử anh hùng cổ hãn văn
邯 野 毒 流 千 萬 骨
Hàm dã độc lưu thiên vạn cốt
驪 山 禍 在 百 年 墳
Ly sơn họa tại bách niên phần
空 含 泯 泯 千 秋 恨
Không hàm mẫn mẫn thiên thu hận
孤 負 堂 堂 八 尺 身
Cô phụ đường đường bát xích thân
光 景 一 般 成 齏 粉
Quang cảnh nhất ban thành tê phấn
令 人 終 古 笑 嬴 秦
Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần
Tạm dịch:
Nhìn thấy Linh quỹ (cũi nhốt hài cốt) của vua Quang Trung
Hai mươi năm thét gào làm gió cuốn mây bay
Như thế thôi cũng xứng bậc anh hùng xưa nay hiếm
Đất Hàm Đan, mối căm hận còn mãi nơi muôn vàn hài cốt
Núi Ly Sơn lại gây họa đến phần mộ trăm năm
Chỉ còn ẩn kín mịt mờ mối hận ngàn năm
Phụ lòng đến tấm thân của bậc chí cao khí lớn
Quang cảnh nay đều đã trở thành cát bụi
Khiến cho người đời xưa nay cười nhạo Doanh Tần.
Hồng Phi - Hương Nao đã nhận định: “…bài thơ “Nhìn thấy linh cữu Quang Trung” của Lê Triệu mới được phát hiện, quả có giá trị về nhiều mặt. Trước hết, ông là một Nho sĩ công khai sáng tác thơ cho biết mình đã đến nơi lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy năm bị Gia Long khai quật, hình dung như thấy linh cữu và cả tiếng thét của người anh hùng áo vải ở Bân Sơn trong lễ tuyên thệ lên ngôi vua để kéo quân ra Bắc tiêu diệt giặc Thanh xâm lược năm 1788, ca ngợi Quang Trung là người anh hùng và lên án Gia Long tàn bạo như Doanh Tần (Tần Thủy Hoàng) bên Trung Quốc. Qua bài thơ, Lê Triệu còn cho biết, tính từ năm Nguyễn Huệ lên ngôi vua đến khi tác giả tới thăm nơi đặt linh cữu của ông chỉ mới 20 năm (Trấp niên sất sá tẩu phong vân), tức vào năm 1808, sau khi lăng mộ vị anh hùng bị khai quật mới có 6 năm, ấy thế mà tất cả nơi đây đã không còn dấu tích (Quang cảnh nhất ban thành phấn mị).” Theo thiển ý, Lê Ôn Phủ không thể viết trực ngôn như thế được vào ngay đầu triều Gia Long vì sẽ tự gây họa văn tự, khi quân phạm thượng dẫn đến họa sát thân, tru di tam tộc. Ngược lại nhà thơ rất thâm thúy và khéo léo thông qua bài thơ này nhằm ám chỉ về Nguyễn Huệ (Hai mươi năm thét gào làm gió cuốn mây bay, Như thế thôi cũng xứng bậc anh hùng xưa nay hiếm), dù là bậc anh hùng xuất chúng với những chiến công bắt đầu từ khi anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm 1773 (anh em Tây Sơn nổi tiếng với tiếng thét, la ó xung trận)(11) và với 2 chiến thắng vang dội: chiến thắng quân Xiêm, trận Rạch Gầm - Xoài Mút 1785 và đại phá quân Thanh xâm lược, Kỷ Dậu 1789 (từ 1773 đến khi Nguyễn Huệ mất vào năm 1792, suýt soát 20 năm). Vương triều Tây Sơn cuối cùng rồi cũng bị Gia Long tiêu diệt (nỗi căm hận còn mãi nơi muôn vàn hài cốt) và ngay cả phần mộ Nguyễn Huệ cũng bị tàn phá, lăng nhục (gây họa đến phần mộ trăm năm). Đứng trước linh quỹ của vua Quang Trung, tác giả như nuối tiếc, khóc than lặng lẽ (Chỉ còn ẩn kín mịt mờ mối hận ngàn năm, Phụ lòng đến tấm thân của bậc chí cao khí lớn) và như đang ngậm ngùi xót xa (Khiến cho người đời xưa nay cười nhạo Doanh Tần). Ở đây nhà thơ không phải “lên án Gia Long tàn bạo như Doanh Tần” (Hồng Phi - Hương Nao) mà cũng không phải liệt Nguyễn Huệ như Tần Thủy Hoàng “bạo chúa” nhưng có thâm ý sánh Nguyễn Huệ ngang hàng bậc đại anh hùng xuất chúng như Tần Thủy Hoàng đã chiến thắng các nước và thống nhất Trung Quốc, thế mà nay đang bị người đời (Vua quan và những người thần phục nhà Nguyễn) mỉa mai cười nhạo!
Tóm lại, nhà thơ Lê Ôn Phủ viết bài thơ Kiến Quang Trung linh quỹ vào khoảng thời điểm xảy ra sự kiện lễ Hiến Phù ở Thái Miếu (tháng 11/1802), Gia Long đã cho quật mộ Quang Trung (việc này phải xảy ra trước để chuẩn bị Lễ Hiến Phù) để trả thù và đem hài cốt của Nguyễn Huệ - một kẻ thù, tội phạm bậc nhất của nhà Nguyễn - nhốt vào trong cũi rồi chở đến Kinh đô Phú Xuân để lăng nhục, chém thây, giã nát rồi vứt bỏ và giam đầu lâu vào Nhà Đồ Ngoại(12). Trong chuyến Nam hành (từ Thanh Hóa vào Huế), Lê Ôn Phủ có thể đã nhìn thấy xe chở cũi nhốt hài cốt Quang Trung đi ngang qua hoặc rất có thể ngay tại Phú Xuân(13) và ông đã xúc động làm thơ. Nhà thơ không chứng kiến tại chỗ cuộc khai quật lăng mộ Quang Trung, sau khi lăng mộ bị tàn phá hủy hoại (việc này ai cũng biết) rồi ông mới nhìn thấy linh quỹ nên ông mới viết (Quang cảnh nay đều đã trở thành cát bụi). LY SƠN 驪山 (không phải là Khuân Sơn, Ngụy Sơn) trong bài thơ này chỉ là một điển tích Trung Quốc chứ không phải là một địa danh liên quan đến lăng mộ Quang Trung.
Biên Hòa, ngày 25 tháng 8 năm 2013
Đ.V.T
(SDB10/09-13)
......................................................
1. Hồng Phi - Hương Nao, Bài thơ chữ Hán “Nhìn thấy linh cữu Quang Trung” mới tìm thấy, Tạp chí Xưa & Nay số 245 năm 2005.
2. Về tên thật của Liên Khê, Hồng Phi - Hương Nao gọi tên là Lê Triệu, tự Ôn Phủ nhưng theo Lê Văn Toan lại cho Lê Ôn Phủ tức Lê Bật Triệu (Sưu tầm, xử lý nguồn tài liệu Hán Nôm vùng Hoằng Hóa, Thanh Hóa (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(100) 2010), ở bài tựa Liên Khê di tập của 2 người cháu Liên Khê là Lê Quang và Lê Đỉnh (1852) viết: “先 生 姓 黎 名 温 甫, tiên sinh tính Lê, danh Ôn Phủ” vậy tên nhà thơ là Lê Ôn Phủ, chúng tôi cũng gọi là Lê Ôn Phủ.
3. Bửu Kế, Tầm Nguyên Từ Điển - Cổ Văn Học Từ Ngữ Tầm Nguyên. Nxb. Thanh Niên 2005.
4. Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (Tập1), Nxb. Tổng Hợp TP.HCM. 2006.
5. Trận Hàm Đan, nguồn: http://vi.wikipedia.org/
6. Liên Khê di tập 蓮溪遺集 (R.313),nguồn: http://lib.nomfoundation.org/
7. Dị thể tự tự điển, nguồn: http://dict.variants.moe.edu.tw/
8. Hán Điển, nguồn: http://www.zdic.net/
9. Khang Hy tự điển 康熙字典, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 1997.
10. Nguyên bản bài thơ Kiến Quang Trung Linh quỹ từ nguồn Nomfoundation.org , chỗ này bị khuyết, đối chiếu bản của Hồng Phi - Hương Nao, chúng tôi dùng chữ 走 để thế.
11. Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện (Tạ Quang Phát dịch), Nhà Tây Sơn, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn 1970.
12. Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Viện sử học dịch. Nxb. Giáo dục, 2001.
13. Theo Nguyễn Phan Vũ (sưu tầm từ dân gian): “Vào năm 1805, khóa sinh người Thanh Hóa là Lê Ôn Phủ vào kinh đô Phú Xuân thi hội, nhìn thấy chiếc cũi giam nắm xương tàn của người anh hùng áo vải đã tức cảnh làm hai câu thơ đầy chí khí như sau: “Lòng ôm mối hận nghìn đời, Tấm thân tám thước giữa trời khó quên” (Những mẫu chuyện về Quang Trung, Văn nghệ Nghĩa Bình. Số 8/1978, nguồn: http://www.thuvienbinhdinh.com/ Thực ra thật khó xác định được thời gian và địa điểm khi Lê Ôn Phủ nhìn thấy linh quỹ Quang Trung vì thư tịch cổ không ghi chép gì, ở bài tựa Liên Khê di tập của 2 người cháu Liên Khê là Lê Quang và Lê Đỉnh (1852) chỉ viết: “Còn về thời gian thứ tự trước sau cũng chưa khảo cứu được. Việc truyền tả chắc còn thiếu sót, chưa dám đính chính. Còn tập “Nam hành tạp vịnh” tuy là thủ bút của tiên sinh, song nguyên bản sau này bị thất lạc, cho nên cũng có chỗ còn khiếm khuyết, chưa rõ” (theo Hồng Phi - Hương Nao, bdd). Liên Khê viết tựa cho Liên Khê nam hành tạp vịnh vào năm 1805 là niên đại hoàn thành tác phẩm. Nếu là năm 1805 thì không còn “linh quỹ” để nhìn nữa. Nhưng nếu Lê Ôn Phủ sau khi nhìn thấy “linh quỹ” Quang Trung mới làm thơ thì có lẽ không xa thời điểm 1802.
Gốm, đồ vật đất nung là vật dụng xuất hiện khá sớm trong đời sống của con người. Từ đất, nước và lửa, con người đã tạo ra những sản phẩm bằng đất nung để phục vụ cho nhu cầu đun nấu thức ăn, đựng nước, đựng hạt giống…
Từ xưa ở các nước Á Đông như Việt Nam, Trung Quốc,… để xua đuổi những điều không tốt đẹp người ta thường sử dụng loại phù khắc trên bia đá dòng chữ “Thái Sơn Thạch Cảm Đương” (泰 山 石 敢 當) để trấn yểm, xem như là một phương pháp hóa giải những điều không như ý.
L.T.S: TCSH nhận được bài này, đang chờ đưa in vào số thích hợp thì một tờ báo trong nước trích đăng; chúng tôi đành phải gác lại. Nay theo yêu cầu của tác giả, chúng tôi xin đăng nguyên bản.
Điện Voi Ré tọa lạc tại làng Trường Đá thuộc xã Thủy Biều, cách trung tâm thành phố Huế 4km về phía Tây Nam. Nếu đi bằng phương tiện xe máy hay ô tô là chỉ mất năm phút.
LÊ ĐÌNH PHÚC
HỒ VĨNH
Bất luận một triều đại nào, quân đội là một tổ chức quan trọng cho bộ máy của triều đại ấy. Thiết chế quân sự dưới thời triều Nguyễn cũng có qui cách và lớn mạnh.
NGUYỄN ANH THƯ
Trước khi hẹn gặp ông Hồ Tấn Phan lần đầu tiên vào năm 2008, tôi đã được đọc nhiều bài viết về “vua đồ cổ xứ Huế”, “người gõ mẻ sành kham nhẫn nhất xứ Huế” “người đọc sử dưới đáy sông Hương”… Dù tiếp cận dưới góc độ sưu tầm cổ vật hay bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc, điều dễ nhận ra là bài viết nào cũng dành không ít lời ca ngợi và thái độ khâm phục với ông Hồ Tấn Phan, một thầy giáo lại dành hơn nửa đời mình cho những cổ vật vớt từ dưới đáy sông Hương và các dòng sông ở Huế. Những bài viết về ông Hồ Tấn Phan cũng như sưu tập cổ vật “có một không hai” ở xứ Huế quả thực đã khơi gợi sự tò mò, quan tâm và hứng thú, thôi thúc tôi chọn Huế là điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến khảo sát các di tích khảo cổ học Champa ở miền Trung Việt Nam.
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Sau khi vào Nam, chúa Tiên - Nguyễn Hoàng đóng dinh ở Ái Tử, trong vòng mấy chục năm mà “Đoan quận công có uy lược, xét kỷ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”(1).
Ngày 3/4, Bộ Cổ vật Ai Cập thông báo đã phát hiện di tích một kim tự tháp Ai Cập được xây dựng cách đây khoảng 3.700 năm trước tại huyện Dahshur, thuộc khu vực Giza.
Chiều 29-3, Sở VH-TT-DL tỉnh Quảng Ngãi cùng Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đoàn Ánh Dương tổ chức cuộc họp bàn các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Sa Huỳnh.
Chùa Thanh Mai nằm ở xã Hoàng Hoa Thám, thị xã Chí Linh (Hải Dương) là một trong những trung tâm Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm thời nhà Trần, nơi gắn với tên tuổi Đệ nhị tổ Pháp Loa. Chùa Thanh Mai còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ quý giá, trong đó có tấm bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi” được tạo khắc từ thời nhà Trần, thế kỷ 14. Mới đây, tấm bia đã được công nhận là “Bảo vật quốc gia”.
Sự xuất hiện của đồng tiền Minh Đức thông bảo trong đồ tùy táng của bà Châu Thị Vĩnh Tế (vợ ông Thoại Ngọc Hầu) là một hiện tượng lạ, gây bất ngờ cho các nhà khoa học.
Bà Châu Thị Vĩnh Tế mất trước ông Thoại Ngọc Hầu 3 năm (bà mất năm 1826, ông mất năm 1829), tuy nhiên vẫn chưa rõ tài sản của ông và bà được chôn cùng lúc hay chôn riêng rẽ theo đám tang từng người.
Đã có nhiều tác phẩm viết về sự nghiệp và công lao của Thoại Ngọc Hầu, tuy nhiên cuộc sống đời thường của ông ít ai biết.
37 cuốn sách cổ bằng văn tự Hán Nôm cổ, quý hiếm được viết và in dập trên chất liệu giấy dó, một số sách viết, in theo lối chữ Chân.. đang được lưu giữ tại một nhà dân ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh cất giữ.
Ngày 22/11, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ và đón nhận bằng xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt di chỉ khảo cổ mộ cự thạch Hàng Gòn và bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia Văn miếu Trấn Biên.
Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du đã phát hiện cuốn sách cổ có niên đại 163 năm trước, liên quan đến đến dòng họ Nguyễn - Tiên Điền.
Bản thảo cổ nhất của người Ai Cập viết trên da thuộc đã được phát hiện trên kệ sách bảo tàng ở thủ đô Cairo, nơi nó được lưu giữ và chìm vào lãng quyên cách đây hơn 70 năm.