ĐINH VĂN TUẤN
Giữa lúc các nhà nghiên cứu sử học đang sôi nổi, tranh biện về cuộc tìm kiếm di tích lăng mộ Quang Trung nhưng vẫn chưa tìm ra bằng chứng xác thật thì bất ngờ trên Tạp chí Xưa & Nay năm 2005(1), hai nhà nghiên cứu Hồng Phi và Hương Nao đã phát hiện và công bố một bài thơ chữ Hán Kiến Quang Trung linh cữu được chép trong Nam hành tạp vịnh tập 2 của bản chép tay Liên Khê di tập do danh sĩ Thanh Hóa là Lê Ôn Phủ(2), hiệu là Liên Khê (1771 - 1846) trước tác.
Vua Quang Trung qua nét vẽ của họa sĩ triều Thanh - Ảnh: wiki
|
Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán của tác giả Lê Triệu, vừa được hai nhà nghiên cứu Hồng Phi và Hương Nao sưu tầm và công bố - Ảnh: internet |
Vấn đề quan trọng mà các tác giả nêu ra chính là ở chữ thứ nhất của câu thơ thứ tư đó là chữ “Khuân”: “…trong chuyến Nam hành. Lê Triệu đã đến thăm phần mộ Quang Trung, như vậy ông là người biết rõ vị trí lăng Quang Trung ở một ngọn núi có tên là “Khuân Sơn”. Trong nguyên bản “Khuân” là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương”. Trong phần chú thích số 3 của bài viết, tác giả đã thử xác định: “Khuân Sơn, theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (Nxb. Thuận Hóa, Huế 1992) chép: “Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thương Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía Tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía Bắc, đi theo về phía Tây có thể đến đất người Man Thượng” (tr. 133)”. Sau khi bài viết trên được công bố, ngay lập tức đã được giới sử học quan tâm đặc biệt, làm dấy nên một niềm hy vọng và cuộc truy tìm mới về chữ nghĩa của “Khuân” cũng như về vị trí của núi “Khuân Sơn” liên quan đến lăng mộ Quang Trung. Điển hình là ngày 8/2/2006, Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế đã tổ chức một cuộc tọa đàm “Hướng đi tìm lăng mộ Quang Trung” và có mời hai tác giả Hồng Phi - Hương Nao tham dự. Nhưng cuối cùng, các nhà nghiên cứu đã không đi đến kết luận nào vì chữ của bài thơ viết thảo khó đọc, Trần Viết Điền phủ nhận cách đọc “Khuân” và đọc là “Ngụy” hay Lê Nguyễn Lưu đọc là “Xước”… nhưng chẳng có cách đọc nào đủ sức thuyết phục cả! Cho đến nay, ẩn tự trong bài thơ của Lê Ôn Phủ vẫn chưa được giải mã. Chính vì vậy, bài viết này sẽ cố gắng làm sáng tỏ một nghi vấn về văn tự cổ cũng như xét lại khả năng có liên quan gì đến lăng mộ Quang Trung hay không?
Trong nguyên bản chép tay (xem hình), chữ thứ nhất của câu thơ thứ tư được viết theo dạng thảo thư so với tự dạng, những cách đọc trước như khuân 麇 hay ngụy 魏… tuy hao hao mặt chữ nhưng cũng không thật chính xác và ý nghĩa không khớp với văn mạch. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, chúng tôi cho rằng đây chính là chữ Ly 驪 được viết theo lối thảo thư, vậy sẽ là Ly Sơn 驪山. Ly Sơn chính là lăng mộ của Tần Thủy Hoàng(3), sau khi nhà Tần sụp đổ, lăng mộ của vua Tần đã bị Hạng Vũ cho đào phá để lấy châu báu(4). Ly sơn đối ứng Hàm dã (Hàm Đan) ở câu trên, cũng là nơi quân Tần đại bại trước liên quân 3 nước Ngụy, Triệu, Sở vào thời Chiến Quốc(5). Như vậy Ly sơn, Hàm Đan dùng theo điển tích Trung Quốc và 2 câu thơ 3, 4 sẽ như sau: “邯 野 毒 流 千 萬 骨, Hàm dã độc lưu thiên vạn cốt, 驪 山 禍 在 百 年 墳, Ly sơn họa tại bách niên phần” (Đất Hàm Đan, nỗi căm hận còn mãi nơi muôn vàn hài cốt, Núi Ly Sơn lại gây họa đến phần mộ trăm năm).
Hiển nhiên, Lê Ôn Phủ chỉ viết về Ly Sơn 驪山 chứ không hề nói gì về địa danh lăng mộ vua Quang Trung như Hồng Phi - Hương Nao đã ngộ nhận là Khuân Sơn hay Thương Sơn! Chúng tôi đã tìm ra dị bản chép tay Liên Khê di tập 蓮 溪遺集(6) với lời đề tựa có niên đại Tự Đức ngũ niên Nhâm Tý (1852), trong đó có bài thơ Kiến Quang Trung linh quỹ 見光中灵櫃 được chép tay rõ ràng ở trong tập Liên Khê nam hành tạp vịnh 蓮 溪南行雜詠, trang 49 (xem hình). Ở bài tựa Liên Khê nam hành tạp vịnh của Lê Ôn Phủ thấy dòng lạc khoản: “Hoàng triều Gia Long Ất Sửu niên 皇 朝嘉隆 乙丑年” (Gia Long năm 1805). Chúng tôi đã đối chiếu lại bài thơ do Hồng Phi - Hương Nao công bố thì thấy chữ thứ nhất ở câu thơ thứ tư được người sao chép viết chính xác là (驪). Do đó có thể khẳng định chỉ có LY SƠN (lăng mộ vua Tần) chứ không có địa danh về lăng mộ Quang Trung và nhân tiện cũng xin nêu thêm một số điểm cần hiệu chỉnh: Chữ cuối cùng trong đề bài không phải là chữ cữu 柩 mà là chữ quỹ 櫃 nên đề bài sẽ là Kiến Quang Trung linh quỹ 見光中灵櫃, linh quỹ 灵櫃 nói về cái cũi đựng hài cốt của vua Quang Trung sau khi bị Gia Long quật mộ trả thù, lăng nhục (1802). Nếu là linh cữu 灵柩 sẽ hiểu là thi hài (mới chết chưa chôn) của Nguyễn Huệ còn nằm trong áo quan và như vậy không phù hợp với văn cảnh khi nhà thơ Lê Ôn Phủ ngậm ngùi than: “光 景 一 般 成齏粉, Quang cảnh nhất ban thành tê phấn” (Quang cảnh nay đều đã trở thành cát bụi), cũng ở câu này chữ cuối cùng Hồng Phi - Hương Nao đã đọc là mị là không đúng, xét mặt chữ nó phải là chữ tê dị thể của 齏(7), nhưng ở đây âm “tê” lại không đúng niêm luật bằng trắc! Người viết cho rằng chắc hẳn khi sao chép di cảo của Liên Khê, người chép đã sơ xuất viết lầm trật tự của 2 chữ tê phấn 齏粉 ra phấn tê 粉齏, trong Hán văn, tê phấn 齏粉 (hay 齑粉) có nghĩa là bụi nhỏ(8), âm nghĩa phù hợp văn cảnh, niêm luật câu thứ 7. Ở câu thứ 5, chữ thứ 3, 4 Hồng Phi - Hương Nao đọc là chỉ chỉ cũng không đúng mặt chữ Hán, đúng ra phải là mẫn mẫn 泯泯. Theo Khang Hy tự điển(9): “泯泯,猶茫茫也, mẫn mẫn, do mang mang dã”: mẫn mẫn còn có nghĩa là mờ mịt.
Sau đây chúng tôi xin chép lại bài thơ (phiên âm, dịch nghĩa) như sau:
![]() |
Bài thơ chép tay Kiến Quang Trung linh quỹ trong tập Liên Khê nam hành tạp vịnh |
見 光 中 灵 櫃
Kiến Quang Trung linh quỹ
卄 年 叱 吒 走(10) 風 雲
Chấp niên sất trá tẩu phong vân
如 此 英 雄 古 罕 聞
Như thử anh hùng cổ hãn văn
邯 野 毒 流 千 萬 骨
Hàm dã độc lưu thiên vạn cốt
驪 山 禍 在 百 年 墳
Ly sơn họa tại bách niên phần
空 含 泯 泯 千 秋 恨
Không hàm mẫn mẫn thiên thu hận
孤 負 堂 堂 八 尺 身
Cô phụ đường đường bát xích thân
光 景 一 般 成 齏 粉
Quang cảnh nhất ban thành tê phấn
令 人 終 古 笑 嬴 秦
Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần
Tạm dịch:
Nhìn thấy Linh quỹ (cũi nhốt hài cốt) của vua Quang Trung
Hai mươi năm thét gào làm gió cuốn mây bay
Như thế thôi cũng xứng bậc anh hùng xưa nay hiếm
Đất Hàm Đan, mối căm hận còn mãi nơi muôn vàn hài cốt
Núi Ly Sơn lại gây họa đến phần mộ trăm năm
Chỉ còn ẩn kín mịt mờ mối hận ngàn năm
Phụ lòng đến tấm thân của bậc chí cao khí lớn
Quang cảnh nay đều đã trở thành cát bụi
Khiến cho người đời xưa nay cười nhạo Doanh Tần.
Hồng Phi - Hương Nao đã nhận định: “…bài thơ “Nhìn thấy linh cữu Quang Trung” của Lê Triệu mới được phát hiện, quả có giá trị về nhiều mặt. Trước hết, ông là một Nho sĩ công khai sáng tác thơ cho biết mình đã đến nơi lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy năm bị Gia Long khai quật, hình dung như thấy linh cữu và cả tiếng thét của người anh hùng áo vải ở Bân Sơn trong lễ tuyên thệ lên ngôi vua để kéo quân ra Bắc tiêu diệt giặc Thanh xâm lược năm 1788, ca ngợi Quang Trung là người anh hùng và lên án Gia Long tàn bạo như Doanh Tần (Tần Thủy Hoàng) bên Trung Quốc. Qua bài thơ, Lê Triệu còn cho biết, tính từ năm Nguyễn Huệ lên ngôi vua đến khi tác giả tới thăm nơi đặt linh cữu của ông chỉ mới 20 năm (Trấp niên sất sá tẩu phong vân), tức vào năm 1808, sau khi lăng mộ vị anh hùng bị khai quật mới có 6 năm, ấy thế mà tất cả nơi đây đã không còn dấu tích (Quang cảnh nhất ban thành phấn mị).” Theo thiển ý, Lê Ôn Phủ không thể viết trực ngôn như thế được vào ngay đầu triều Gia Long vì sẽ tự gây họa văn tự, khi quân phạm thượng dẫn đến họa sát thân, tru di tam tộc. Ngược lại nhà thơ rất thâm thúy và khéo léo thông qua bài thơ này nhằm ám chỉ về Nguyễn Huệ (Hai mươi năm thét gào làm gió cuốn mây bay, Như thế thôi cũng xứng bậc anh hùng xưa nay hiếm), dù là bậc anh hùng xuất chúng với những chiến công bắt đầu từ khi anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm 1773 (anh em Tây Sơn nổi tiếng với tiếng thét, la ó xung trận)(11) và với 2 chiến thắng vang dội: chiến thắng quân Xiêm, trận Rạch Gầm - Xoài Mút 1785 và đại phá quân Thanh xâm lược, Kỷ Dậu 1789 (từ 1773 đến khi Nguyễn Huệ mất vào năm 1792, suýt soát 20 năm). Vương triều Tây Sơn cuối cùng rồi cũng bị Gia Long tiêu diệt (nỗi căm hận còn mãi nơi muôn vàn hài cốt) và ngay cả phần mộ Nguyễn Huệ cũng bị tàn phá, lăng nhục (gây họa đến phần mộ trăm năm). Đứng trước linh quỹ của vua Quang Trung, tác giả như nuối tiếc, khóc than lặng lẽ (Chỉ còn ẩn kín mịt mờ mối hận ngàn năm, Phụ lòng đến tấm thân của bậc chí cao khí lớn) và như đang ngậm ngùi xót xa (Khiến cho người đời xưa nay cười nhạo Doanh Tần). Ở đây nhà thơ không phải “lên án Gia Long tàn bạo như Doanh Tần” (Hồng Phi - Hương Nao) mà cũng không phải liệt Nguyễn Huệ như Tần Thủy Hoàng “bạo chúa” nhưng có thâm ý sánh Nguyễn Huệ ngang hàng bậc đại anh hùng xuất chúng như Tần Thủy Hoàng đã chiến thắng các nước và thống nhất Trung Quốc, thế mà nay đang bị người đời (Vua quan và những người thần phục nhà Nguyễn) mỉa mai cười nhạo!
Tóm lại, nhà thơ Lê Ôn Phủ viết bài thơ Kiến Quang Trung linh quỹ vào khoảng thời điểm xảy ra sự kiện lễ Hiến Phù ở Thái Miếu (tháng 11/1802), Gia Long đã cho quật mộ Quang Trung (việc này phải xảy ra trước để chuẩn bị Lễ Hiến Phù) để trả thù và đem hài cốt của Nguyễn Huệ - một kẻ thù, tội phạm bậc nhất của nhà Nguyễn - nhốt vào trong cũi rồi chở đến Kinh đô Phú Xuân để lăng nhục, chém thây, giã nát rồi vứt bỏ và giam đầu lâu vào Nhà Đồ Ngoại(12). Trong chuyến Nam hành (từ Thanh Hóa vào Huế), Lê Ôn Phủ có thể đã nhìn thấy xe chở cũi nhốt hài cốt Quang Trung đi ngang qua hoặc rất có thể ngay tại Phú Xuân(13) và ông đã xúc động làm thơ. Nhà thơ không chứng kiến tại chỗ cuộc khai quật lăng mộ Quang Trung, sau khi lăng mộ bị tàn phá hủy hoại (việc này ai cũng biết) rồi ông mới nhìn thấy linh quỹ nên ông mới viết (Quang cảnh nay đều đã trở thành cát bụi). LY SƠN 驪山 (không phải là Khuân Sơn, Ngụy Sơn) trong bài thơ này chỉ là một điển tích Trung Quốc chứ không phải là một địa danh liên quan đến lăng mộ Quang Trung.
Biên Hòa, ngày 25 tháng 8 năm 2013
Đ.V.T
(SDB10/09-13)
......................................................
1. Hồng Phi - Hương Nao, Bài thơ chữ Hán “Nhìn thấy linh cữu Quang Trung” mới tìm thấy, Tạp chí Xưa & Nay số 245 năm 2005.
2. Về tên thật của Liên Khê, Hồng Phi - Hương Nao gọi tên là Lê Triệu, tự Ôn Phủ nhưng theo Lê Văn Toan lại cho Lê Ôn Phủ tức Lê Bật Triệu (Sưu tầm, xử lý nguồn tài liệu Hán Nôm vùng Hoằng Hóa, Thanh Hóa (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(100) 2010), ở bài tựa Liên Khê di tập của 2 người cháu Liên Khê là Lê Quang và Lê Đỉnh (1852) viết: “先 生 姓 黎 名 温 甫, tiên sinh tính Lê, danh Ôn Phủ” vậy tên nhà thơ là Lê Ôn Phủ, chúng tôi cũng gọi là Lê Ôn Phủ.
3. Bửu Kế, Tầm Nguyên Từ Điển - Cổ Văn Học Từ Ngữ Tầm Nguyên. Nxb. Thanh Niên 2005.
4. Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (Tập1), Nxb. Tổng Hợp TP.HCM. 2006.
5. Trận Hàm Đan, nguồn: http://vi.wikipedia.org/
6. Liên Khê di tập 蓮溪遺集 (R.313),nguồn: http://lib.nomfoundation.org/
7. Dị thể tự tự điển, nguồn: http://dict.variants.moe.edu.tw/
8. Hán Điển, nguồn: http://www.zdic.net/
9. Khang Hy tự điển 康熙字典, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 1997.
10. Nguyên bản bài thơ Kiến Quang Trung Linh quỹ từ nguồn Nomfoundation.org , chỗ này bị khuyết, đối chiếu bản của Hồng Phi - Hương Nao, chúng tôi dùng chữ 走 để thế.
11. Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện (Tạ Quang Phát dịch), Nhà Tây Sơn, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn 1970.
12. Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Viện sử học dịch. Nxb. Giáo dục, 2001.
13. Theo Nguyễn Phan Vũ (sưu tầm từ dân gian): “Vào năm 1805, khóa sinh người Thanh Hóa là Lê Ôn Phủ vào kinh đô Phú Xuân thi hội, nhìn thấy chiếc cũi giam nắm xương tàn của người anh hùng áo vải đã tức cảnh làm hai câu thơ đầy chí khí như sau: “Lòng ôm mối hận nghìn đời, Tấm thân tám thước giữa trời khó quên” (Những mẫu chuyện về Quang Trung, Văn nghệ Nghĩa Bình. Số 8/1978, nguồn: http://www.thuvienbinhdinh.com/ Thực ra thật khó xác định được thời gian và địa điểm khi Lê Ôn Phủ nhìn thấy linh quỹ Quang Trung vì thư tịch cổ không ghi chép gì, ở bài tựa Liên Khê di tập của 2 người cháu Liên Khê là Lê Quang và Lê Đỉnh (1852) chỉ viết: “Còn về thời gian thứ tự trước sau cũng chưa khảo cứu được. Việc truyền tả chắc còn thiếu sót, chưa dám đính chính. Còn tập “Nam hành tạp vịnh” tuy là thủ bút của tiên sinh, song nguyên bản sau này bị thất lạc, cho nên cũng có chỗ còn khiếm khuyết, chưa rõ” (theo Hồng Phi - Hương Nao, bdd). Liên Khê viết tựa cho Liên Khê nam hành tạp vịnh vào năm 1805 là niên đại hoàn thành tác phẩm. Nếu là năm 1805 thì không còn “linh quỹ” để nhìn nữa. Nhưng nếu Lê Ôn Phủ sau khi nhìn thấy “linh quỹ” Quang Trung mới làm thơ thì có lẽ không xa thời điểm 1802.
Như chúng tôi đã đưa tin, việc tìm kiếm lăng mộ Vua Quang Trung đang được các giới nghiên cứu ở Huế tiến hành. Dưới đây Sông Hương xin tiếp tục giới thiệu một luận cứ mới mà các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu văn hóa Huế mới phát hiện. Bài viết do anh Phan Thuận An, một thành viên của Trung tâm thực hiện.
S.H
Mới đây giới khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy hài cốt 4.000 năm tuổi của một bà mẹ đang ôm chặt đứa con. Vào thời điểm ấy, ở đây đã xảy ra một trận động đất dữ dội.
Tiến sĩ Nicholas Reeves, nhà khảo cổ người Anh thuộc trường Đại học Arizona, vừa tuyên bố ông đã tìm thấy lối vào bí mật dẫn đến phòng an táng Pharaoh Tutankhamun và đằng sau đó là mộ của Nữ hoàng Nefertiti lừng danh.
Trong nền nghệ thuật Việt Nam, nghệ thuật thời Mạc (1527 - 1592) chiếm một vị thế rất riêng, có phong cách khác hẳn với tính nhịp điệu truyền thống của sáng tạo Việt Nam trước và sau đó.
Trong lúc đang làm đất để trồng lúa, một số người dân tại xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã phát hiện rất nhiều cổ vật có niên đại từ thế kỷ thứ 10.
Bản thảo gốc truyện cổ tích Psychen (Tâm trạng) nổi tiếng của nhà văn H.C. Andersen, đã được tìm thấy trong khi người ta đang dọn dẹp Knuthenborg - tòa dinh thự tọa lạc trên đảo Lolland, cách thủ đô Copenhagen của Đan Mạch 150km về phía Nam.
Ngày 12/5, tại thủ đô Phnom Penh, Campuchia đã đón “về nhà” bức tượng đá thần khỉ Hanuman thuộc Hindu giáo sau 3 thập kỷ lưu lạc tại châu Âu và châu Mỹ.
Để giữ cho mình giấc ngủ ngàn thu mà không bị ai quấy rầy, đại thi hào Shakespreares đã cho khắc trên bia mộ mình một lời nguyền đáng sợ.
Trong đội quân đất nung của Tần Thủy Hoàng, người ta đã tìm thấy cả những chiến binh “ngoại”. Phải chăng từ thời xa xưa đã tồn tại những lính đánh thuê?
Theo Livescience, hàng chục ngôi mộ chứa gần 40 xác ướp vừa được khai quật tại một khu tế lễ 1.200 năm tuổi ở thung lũng Cotahuasi của Peru.
Một tấm bia đá có niên đại hơn 200 năm vừa được phát hiện trong đợt khảo cứu, sưu tầm các di sản văn hóa trên địa bàn huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), đây là di sản văn hóa vật thể quý hiếm ghi khắc về ngôi chùa cổ Hưng Long, của Tổng Du Đồng xưa.
Để tìm hiểu về các mảnh Kinh Phúc Âm tìm thấy trong quan tài người Ai Cập, một nhóm các nhà nghiên cứu đã phải phá hủy các tấm mặt nạ của xác ướp và điều này đã bị các học giả khác lên án.
Theo GS Hoàng Xuân Chinh, sức sống văn hóa Đông Sơn trong thời Bắc thuộc được phản ảnh qua các cuộc khởi nghĩa chống thống trị phương Bắc với đỉnh cao là chiến thắng giành độc lập của Ngô Quyền, trong lúc nhiều văn hóa khác đã vĩnh viễn trở thành một bộ phận của văn hóa Hán.
LÊ QUANG THÁI
I. SÁNG TẠO RA CHỮ QUỐC NGỮ
Vào khoảng giữa thế kỷ 17 đã có ít người dân nước Đại Việt viết chữ quốc ngữ theo mẫu tự a, b, c… khá thành thạo theo lối viết tiên phong “đổi lông ra sắt” ở hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Sinh thời, Thành Cát Tư Hãn từng ban lệnh cấm không cho ai được biết nơi chôn cất ông. Sau khi qua đời, thuộc hạ đã thực hiện đúng ý chỉ này nên suốt 800 năm qua, nơi chôn cất ông vẫn là một bí ẩn lớn.
HỒ VĨNH
Mới đây trong đợt đi nghiên cứu thực tế tại phố cổ Gia Hội thành phố Huế, chúng tôi đã tìm thấy một văn bản được viết bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ trên giấy trắng dày, khổ 50x65cm.
Sáng 6.1, Trung tâm nghiên cứu Kinh thành, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã công bố kết quả điều tra, khai quật khảo cổ học di tích hành cung Lỗ Giang tại huyện Hưng Hà, Thái Bình.
Một nghĩa trang cổ trên sa mạc Ai Cập được tìm thấy với hơn một triệu xác ướp khiến các nhà nghiên cứu đau đầu để tìm câu trả lời.
Một ngôi nhà cổ có niên đại trên 200 năm, được xây theo kiến trúc thời Nguyễn vừa được Bảo tàng Hà Tĩnh phát hiện tại xã Sơn Lễ (huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh).
Các nhà khoa học đã lần đầu tiên xác định tầng văn hóa đầy đủ nhất có niên đại kéo dài từ thế kỷ 8-9 đến thế kỷ 19-20 ở trục Trung tâm Hoàng thành Thăng Long, là thông tin được đưa ra tại Hội nghị báo cáo kết quả khai quật thăm dò khu vực chính điện Kính Thiên thuộc Trung tâm Hoàng thành Thăng Long tổ chức ngày 16/12.