Kỷ niệm 150 năm ngày sinh vua Hàm Nghi (3/8/1871 - 3/8/2021), Hội Nghiên cứu và Phát triển di sản văn hóa Huế tổ chức cuộc tọa đàm/ sinh hoạt khoa học “Hàm Nghi - nhà vua bị lưu đày, nghệ sĩ tạo hình Tử Xuân ở Alger”.
Vua Hàm Nghi thời trẻ và vua Hàm Nghi cuối đời
Có nhiều thông tin mới về cuộc đời vua Hàm Nghi và mở ra hướng nghiên cứu mới về vua Hàm Nghi với tinh thần tái hiện lịch sử như nó vốn có. 5 chủ đề chính được trao đổi: Đời sống của vua Hàm Nghi trong những năm tháng lưu đày. Cuộc đời hoạt động nghệ thuật của vua Hàm Nghi. Đính chính những thông tin thiếu chính xác về cuộc đời vua Hàm Nghi và các thành viên trong gia đình vua Hàm Nghi. Đề xuất phát huy các giá trị di sản của vua Hàm Nghi. Thông báo thêm thông tin về việc rước hài cốt vua Hàm Nghi ở Pháp về Huế.
Sông Hương trân trọng giới thiệu ý kiến của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm phát biểu tại cuộc tọa đàm; và bài viết “Vua Hàm Nghi với nguồn mỹ cảm về hội họa hiện thực” của nhà nghiên cứu Phan Thanh Bình.
Hàm Nghi - Nhà vua yêu nước, người họa sĩ thế hệ đầu của Việt Nam
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam có hai năm Ất Dậu đáng ghi nhớ. Đó là năm Ất Dậu 1885 và năm Ất Dậu 1945 được kết nối như một vòng tròn lục thập hoa giáp (60 năm) theo định luật hưng vong của tư duy Phương Đông, trong đó năm Ất Dậu trước đánh dấu biến cố mất nước và năm Ất Dậu sau là năm người Việt Nam giành lại nước, bước vào trang sử Độc lập Tự do. Ở năm đầu của 60 năm đầy biến cố đó, vua Hàm Nghi là cái tên rực sáng, là ngọn cờ của phong trào Cần vương chống chủ nghĩa thực dân Pháp.
Lên ngôi năm 13 tuổi (năm 1884) trong tình cảnh rối ren của triều đình Huế dưới họa xâm lăng đã cận kề, năm 14 tuổi mang danh nghĩa là người đứng đầu triều đình Huế nổ súng vào lực lượng quân sự Pháp đóng tại Huế, tiếp đó ra lời kêu gọi Cần vương (Giúp vua), đưa cả triều đình ra bưng biền, nằm gai nếm mật trong suốt 3 năm ở rừng núi Hà Tĩnh, Quảng Bình, chỉ bị bắt sau khi bị thuộc hạ phản bội, nhà vua trẻ 17 tuổi đã kết thúc vương vị của mình để đi lưu đày cho đến chết giữa ngày đất nước chìm vào nô lệ. Đó là sự lựa chọn hiếm hoi can đảm của một nhà vua trước họa xâm lăng của phương Tây mà sử sách ghi nhận được.
Nhân dân Huế có niềm vui chứng kiến ngày kết thúc triều đại quân chủ cuối cùng ở Ngọ Môn 1945 sẽ không bao giờ quên những biến cố long trời lở đất khi Kinh đô thất thủ năm 1885, cả kinh thành bị đốt phá, vua Hàm Nghi - nhà vua chính danh của nước nhà phải bôn tẩu tìm cơ hội cứu nước.
Lịch sử chưa lùi xa. Cho dù có người vẫn coi nhẹ cuộc chiến đấu không cân sức của hoàng tộc nhà Nguyễn và những quần thần có mặt trong phong trào Cần vương những ngày đầu chống ách thực dân; cho dù có người coi vị vua trẻ Hàm Nghi chỉ là “con bài” trong thời kỳ đầy biến cố mà người ta tùy tiện lựa chọn, thì bằng thời gian đầy thách thức, cùng những khổ nạn mà một ông vua mất nước phải gánh chịu và vượt lên, vua Hàm Nghi ngày càng sáng tỏ trong lòng chúng ta hai điều thật căn bản:
1. Vua Hàm Nghi là vị vua yêu nước mà trong quốc nạn dân tộc đã lựa chọn được. Mặc dù nhiều lần “triều đình” do thực dân Pháp dựng lên kêu gọi ông đầu hàng, ông vẫn tuyên bố thà chết giữa núi rừng chứ không thể qui phục. Ông tôn thờ dân tộc, giữ gìn lòng ái quốc suốt những năm tháng lưu đày, không cộng tác với kẻ thù làm tổn hại đất nước. Sự kiên trung, bất khuất của ông khiến kẻ thù và những ai biết đến ông phải nể phục. Người Việt thường nói: Nhà nghèo biết con hiếu, Nước loạn biết tôi trung. Vua Hàm Nghi đáng được coi là vị vua trung hiếu với dân tộc.
2. Vua Hàm Nghi là hiện thân nhân cách cao quí của người Việt trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Bị lưu đày, bị ghẻ lạnh, thậm chí bị mua chuộc, nhà vua vẫn giữ gìn cốt cách con người Việt có văn hóa, giàu lòng tự trọng, giàu sức cảm hóa với những chung quanh, tâm hồn ông đẹp như hoa mai xứ Huế mà ông dành để đặt tên cho con gái đầu của mình (bà công chúa Như Mai). Ông sống cô đơn, nhưng đầy khát vọng. Ông dành thời gian để học hỏi, tìm kiếm và thử thách trong mỹ thuật. Chắc chắn người ta còn phải còn phải trở đi trở lại nhiều để thưởng thức, tìm hiểu trên những tranh, tượng của nhà vua nghệ sĩ này.
Một con người sống giữa các biến cố của dân tộc, của dòng họ và biến cố của bản thân nhưng vẫn nêu cao trách nhiệm và phẩm giá, lòng tự hào tự chủ đến mức càng lùi xa trong thời gian thì những gì Người làm được trong cái hữu hạn của đời người càng trở nên quí giá. Chúng ta thực sự biết ơn và ngưỡng mộ vua Hàm Nghi.
Huế, 29/7/2021
N.K.Đ
(TCSH390/08-2021)
PHAN VĂN DẬT Tiếp theo kỳ trước (Sông Hương số 16-85)
LTS: Đoạn trích dưới đây nằm trong cuốn sách “Sauvenirs de Hue” (Hồi ký về Huế) do tác giả người Pháp Michel Đức Chaigneau viết vào năm 1867. Ông sinh ở Huế năm 1803 và mất ở Pháp năm 1894, trừ một thời gian trở về nước Pháp, ông đã sống ở Huế 21 năm.
HOÀNG TRUNG THÔNGAnh Hải Triều Nguyễn Khoa Văn sống một cuộc đời đấu tranh cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Tôi được đọc anh từ những bài viết chống nghệ thuật vị nghệ thuật, chống duy tâm và cả lý thuyết cho rằng nước ta không có chế độ phong kiến.
LTS: Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Đạm Phương nữ sử (1881- 2011), 85 năm ra đời Nữ Công Học hội Huế (15.6.1926 - 15.6.2011) do bà Đạm Phương sáng lập, ngày 18.6 tới đây, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế và Viện Văn học Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Đây là cuộc hội thảo về Đạm Phương nữ sử lần đầu tiên, và được tổ chức ngay tại Huế, quê hương của Bà.
PHAN VĂN DẬT Một ngày dựa mạn thuyền rồng Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài.
NGUYỄN CƯƠNG Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.
NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾNXưa nay, trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, Huế được nói đến rất nhiều, nhất là với những người con của Huế trong đó có những hoàng tử của triều Nguyễn đặc biệt là các hoàng tử của triều vua Minh Mạng.
L.T.S: Ông Nguyễn Hải Âu quê ở Hà Nam Ninh. Năm 1941 ông đi lính bị đưa sang Pháp rồi sang Alger. Ở Pháp và Alger ông tham gia lãnh đạo phong trào phản chiến nên bị đưa sang Calcutta, không cho hồi hương.
TRẦN THỊ NHƯ MÂNTrong số những phụ nữ ở Huế mà tôi được gặp lúc thiếu thời, có một khuôn mặt tôi nhớ mãi, không những vì có nhiều quan hệ gần gũi với tôi, mà một lúc nào đó đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Đó là bà Đạm Phương.
LÊ VĂN HIẾN(Trích hồi ký)
LND: Bửu Đình là một nhà văn có tinh thần yêu nước được các tầng lớp thanh niên thời kỳ trước ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam yêu mến. Vừa rồi, nhân đọc cuốn “Những bí mật trên Côn Đảo” của nhà văn Demario Giang Colotdo viết từ những năm 1935-1936 (xuất bản tại Paris năm 1956) - một cuốn sách ca ngợi khí tiết của những người tù cộng sản trên Côn Đảo, thấy có một chương (1) viết về Bửu Đình, tôi xin dịch để giới thiệu với bạn đọc Sông Hương. Đây là tư liệu đầu tiên giới thiệu Bửu Đình, rất mong bạn đọc và gia đình của nhà văn Bửu Đình cung cấp thêm tư liệu để chúng tôi có thể giới thiệu một cách đầy đủ về nhà văn của núi Ngự sông Hương này.
Vắng mặt Sông Hương suốt mấy trăng,Đuổi xong ma bệnh rước tin mừng…
NGUYỄN ĐẮC XUÂNDo Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ ở Việt Nam, cho nên người phụ nữ Huế ngoài dân trăm họ thông thường như các địa phương khác còn có phụ nữ thuộc tầng lớp vương giả sống trong chốn Nội cung nhà Nguyễn như các bà mẹ vua, vợ vua, con gái vua, cháu vua và cung nhân.
TRẦN MINH TÍCHBên bờ phá Tam Giang mênh mông sóng nước, cách thành phố Huế khoảng chừng hai mươi cây số về phía đông nam có vùng đất bạt ngàn cát trắng, nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược là cái nôi của cách mạng, hàng bao nhiêu hạt giống đỏ được ươm mầm để nhân rộng ra các vùng đất khác, tên gọi của xã vùng cát anh hùng đó là Phú Thạnh bây giờ là Phú Đa.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNThừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.
LIỄU THƯỢNG VĂNQuả thực đã nổi lên sự phong phú đặc biệt khi đứng ở góc nhìn tập trung, tế nhị, để điểm lại một số ảnh hưởng lớn, khó phai nhòa của họ, những khuôn mặt Nữ lừng danh của vùng đất Thuận Hóa.
TRẦN XUÂN THẢOKỷ niệm năm sinh thứ 160 của Tôn Thất Thuyết (1839 - 1999)
BỬU ÝKhi nghe dóng lên câu hỏi: “Người Huế, anh là ai?” có lẽ cùng chẳng ai buồn giật mình hay ngạc nhiên làm gì. Bởi lẽ cái chân dung sẽ được phác hoạ ra chắc chẳng có gì độc đáo. Ai nấy đều đã biết rồi, đã gặp rồi, đã gặp khắp nơi là đằng khác. Dù sao, đây cũng thuộc loại hình ảnh cũ kỹ trong cuốn album gia đình mà anh chị em thường táy máy giở đi giở lại vậy.
N. I. NIKULIN*Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Và lòng đầy xúc động tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.
LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.