Đổi mới là tồn tại, chất lượng là danh dự, bản sắc là tôn vinh

11:16 17/07/2008
NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.

Từ đó tới nay, cùng hiện hữu với cái tên con sông thiên nhiên thơ mộng vốn nổi tiếng, tạp chí Sông Hương cũng được nhiều người, nhiều nơi biết đến như một dòng chảy đặc trưng bản sắc văn hoá Huế. Ngay từ khi mới ra đời, Sông Hương đã có diện mạo riêng, giọng điệu riêng và lẳng lặng đi vào lòng độc giả, vào đời sống tinh thần của cộng đồng rộng rãi không chỉ ở trong nước. Có thể nói, lần đầu tiên, nơi đầu tiên giữa miền Trung này, một tờ tạp chí văn nghệ địa phương đã “vượt biên tỉnh lẻ”, đã vượt khỏi cơ chế bán không mua, cho không đọc và mở ra được “thương hiệu” riêng cho mình trong giới hạn của người hâm mộ. Suốt hai mươi lăm năm qua, Sông Hương ngày một khẳng định vị trí của mình, khẳng định sự đóng góp của mình trong công cuộc đổi mới đất nước mà trực tiếp là đổi mới những động thái văn học.
Thế kỷ XX đã qua với nhiều biến đổi sâu sắc về mọi mặt và việc phân kỳ trong lịch sử văn học chúng ta cũng phải gắn với lịch sử cách mạng của dân tộc. Dù theo tiêu chí nào, văn học Việt thế kỷ XX cũng vẫn là một trục dọc đi qua tiền chiến đến kháng chiến rồi về hậu chiến. Trên trục dọc ấy, dấu ấn về thi pháp, về tâm thức của các chủ thể sáng tạo cũng được khu biệt tương ứng với đặc tính của từng giai đoạn. Thời tiền chiến dùng dằng với cái tôi lãng mạn. Thời kháng chiến hăm hở với cái ta phi thường. Về hậu chiến lại day dứt với cái tôi bình thường. Chính giai đoạn văn học tự day dứt với cái tôi bình thường này là bước ngoặt của nhu cầu đổi mới. Tạp chí Sông Hương xuất hiện năm 1983 nhưng đến cuối năm 1986, Đại hội VI của Đảng mới hoạch định đường lối đổi mới và mở đầu quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội chứ không riêng gì văn học. Song, trong lĩnh vực văn học dường như đã có sự manh nha sớm hơn. Ngay sau khi bước ra khỏi chiến tranh, trở lại với cuộc sống đời thường, những người cầm bút đều có một “văn cảnh mới” và bình tĩnh nhìn lại mình, nhìn lại nền văn học nước nhà. Trước đó, cả nước với hai nhiệm vụ chiến lược: kháng chiến giải phóng dân tộc và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, văn học cũng chỉ có thể viết theo hai dòng hiện thực xã hội chủ nghĩa và văn học kháng chiến. Trong khi đó, nhìn qua cửa sổ văn học so sánh, chúng ta thấy thế giới đã mở ra biết bao trào lưu, trường phái và đã đi qua hiện đại tới hậu hiện đại. Nền văn học
Việt lạc hậu không chỉ vì sự tiên tiến của thế giới mà còn vì sự bế tắc, khủng hoảng về lý luận của chúng ta. Với ít nhiều mặc cảm đó, có lúc chúng ta đã nóng vội và muốn đốt cháy giai đoạn bằng cách tự phủ nhận mình. Các luận điểm “văn học phải đạo” hoặc “Ai điếu cho một nền văn học” đã gây nhức nhối cho những cuộc tranh luận. Có ý kiến cho rằng, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là một khái niệm giả, là thứ văn chương ứng dụng, còn với dòng văn học kháng chiến là văn học minh hoạ. Cả hai thứ đó đều nằm trong hệ qui chiếu văn dĩ tải đạo. Sứ mệnh lịch sử của chúng đã qua và không còn cách nào khác hơn để bước vào đổi mới là tuyệt đoạn. Sự chuyển động, trăn trở của văn học ở thời hậu chiến này đã khơi ra một dòng văn học sám hối trước khi nó chìm vào con sông đổi mới. Sông Hương của xứ Huế không hề do dự và đã sớm hoà mình vào con sông đổi mới của văn học nước nhà với phương châm “cái mới phải mạnh mẽ, cái cũ phải sâu sắc và nhìn ra thế giới”.
Sông Hương đã đăng tải khá nhiều bài mạnh mẽ theo xu hướng đổi mới là sự vĩnh biệt quá khứ, là sự cảm hứng về tương lai. Rabelais một tác gia kiệt xuất của nền văn học Pháp từ thời Phục Hưng đã thể hiện khát vọng đổi mới của nhân loại một cách nồng nàn như thế. Lần đầu tiên con người có ý niệm về tương lai thì đồng thời, cũng là lần đầu tiên con người vô tâm phủ nhận quá khứ. Trong một xã hội truyền thống, mọi thứ đều được định sẵn cả rồi, đổi mới là tháo dỡ tất cả những trật tự đó nên người ta rất sợ. Việt là một nước không chỉ có truyền thống mà còn giàu truyền thống nữa. Cũng như ở Liên Xô (cũ), khi khởi xướng đổi mới, đã có không ít nhà văn dị ứng chỉ vì họ quen cơ chế bao cấp, quen cả việc thiếu dân chủ. Dân chủ đối với họ giống như chim tự do bay lượn nhưng cũng phải tự do kiếm ăn mà họ là chim được bảo hiểm trong lồng. Đổi mới tư duy văn học cũng mang màu sắc đổi mới ý thức hệ mà ý thức hệ là những “pháo đài chính trị”. Lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao thể nghiệm đẫm máu về sự bông lông và bông lơn của ý thức hệ. Ở nước ta, công cuộc đổi mới được diễn ra dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng nên mọi việc được suôn sẻ hơn. Tất nhiên cũng không tránh khỏi những vấp váp, những lệch lạc nhất là trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ và báo chí. Nhưng dù sao, với ý thức nhập cuộc sớm, Sông Hương đã có những đóng góp riêng nhất định.
Đặc điểm mang tính bản chất của văn học thời kỳ đổi mới là nhu cầu tự vấn và cảm hứng sự thật. Sự thật văn học không kỳ bí như sự thật lịch sử, cũng không trần trụi như sự thật đời sống mà nó là sự thật thấu thị của linh giác và nhận thức. Mặt nào đó, sự thật văn học giống như một kẻ thóc mách, xếch mé luôn bỡn cợt sự bình yên của trật tự giả dối và thói quen giả dối. Chính vì vậy mà trong nó thường hằng mang mầm mống hiểm hoạ cho “đối tác” của mình. Sông Hương đã từng mắc lỗi “việt vị” và điều đó cũng không có gì là lạ bởi vì quả bóng sự thật bao giờ cũng ở phía sau tính dự báo của văn học. Không khí dân chủ và đối thoại là những thành tố làm nên gương mặt mới của văn học ở thời kỳ này. Tạp chí Sông Hương chúng ta cũng sớm mang gương mặt của sự đổi mới ấy. Trong lĩnh vực khoa học, đổi mới đồng nghĩa với sự phát triển, nâng trình độ, cấp độ còn với văn học thì chưa hẳn thế. Văn học có qui luật riêng, nó vừa đánh thức những quan năng phàm tục vừa đánh thức những ẩn thánh thiêng liêng trong con người để con người vươn tới sự hoàn thiện chính mình. Giá trị cơ bản trong các tác phẩm văn học là ở đấy.
Xem xét quy mô hoặc tầm cỡ một tác phẩm văn học chính là việc định giá giá trị cơ bản đó. Thế nhưng đã có lúc, chúng ta phàn nàn văn học chưa có những tác phẩm ngang tầm tương quan với các giá trị khác của thời đại. Đấy là điều phi lý. Nếu hỏi ngược lại thế nào là ngang tầm thời đại thì câu trả lời sẽ ra sao? Chẳng lẽ văn học cũng phải phát triển ngang tầm các phương tiện thông tin đại chúng, ngang tầm với cái gọi là nền văn hoá nghe nhìn? Những phương tiện kỹ thuật hiện đại ngày hôm nay rồi sẽ trở thành đồ cổ của nghìn năm sau nhưng nghìn năm sau cũng khó có thể có một tác phẩm văn học nào ngang tầm với một kiệt tác ở thiên niên kỷ trước – như Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn. Lẽ vậy, văn học chỉ có thể phát triển theo chiều sâu với biên độ khác chứ không thể phát triển theo “chiều cao”. Trong văn học không có chuyện đứng trên vai người khổng lồ để mình được cao hơn như trong khoa học. Sự sáng tạo văn học là vô phương thừa kế. Không ai để lại kinh nghiệm cho ai được. Ngay cả chủ thể sáng tạo cũng không tự rút ra được kinh nghiệm cho mình. Có chăng thì đó chỉ là sự tự lặp lại bản thân. Quy luật sáng tạo không cho phép, không thừa nhận sự lặp lại. Kinh nghiệm trong sáng tạo văn học chỉ là bó đuốc soi sau lưng mà thôi. Do đặc thù đó, văn học bao giờ cũng phải lần mò tới các giá trị mới và cũng không bao giờ thoả mãn với các giá trị vừa lần mò được ấy. Đấy chính là tính cách mạng của văn học. Song, tính cách mạng ấy nếu đặt vào quỹ đạo truyền thống và các mối quan hệ xã hội khác thì sẽ thấy nó mang một chiều kích thác loạn. Ủng hộ tính cách mạng ấy không đúng lúc, đúng chỗ sẽ dễ đồng loã với sự thác loạn. Sông Hương đã làm như vậy và vô hình trung, từ chỗ mắc lỗi “việt vị” lại dấn thêm mắc lỗi “trước vùng cấm”. Mắc lỗi “trước vùng cấm” thường chỉ bị thẻ vàng nhưng nếu trọng tài nhìn nhầm hoặc “vận dụng” thì cũng có thể bị phạt thẻ đỏ. Trên thực tế, Sông Hương đã bị phạt “thẻ đỏ”. Một lần rồi hai lần! Đấy là những biến cố mang kỷ niệm buồn nhưng dù vậy, khi nhìn lại chặng đường 25 năm hoạt động không thể không nhắc tới. Việc bị phạt “thẻ đỏ” thời ấy đối với Sông Hương là bài học cho cơ quan báo chí còn đến bây giờ, sau một độ lùi lịch sử, tỉnh táo nhìn lại, nó là bài học cho cơ quan chức năng!
Sự khắc khoải thường trực đối với Sông Hương không phải ở chỗ làm sai hay làm đúng mà ở chỗ chất lượng. Chất lượng là danh dự của những tờ báo được bao cấp, là sự sống còn của những tờ báo phải tự lo kinh phí. Song, chất lượng là cái gì thì mỗi tờ báo phải tự xác định cho mình. Với Sông Hương, chất lượng không phải là hàm lượng chất xám, càng không phải là giá trị thông tin mà nó là một lưỡng thể của quan hệ thẩm mỹ. Quan hệ thẩm mỹ là sự “giao hội” giữa chủ thể thẩm mỹ  với đối tượng thẩm mỹ. Độc giả của Sông Hương không chỉ là những người đọc bình thường mà họ còn có tư cách cao hơn là chủ thể thẩm mỹ. Một chủ thể thẩm mỹ trọn vẹn với các yếu tố nhận thức, tình cảm, thị hiếu và lý tưởng. Bởi vậy, tờ tạp chí cũng phải có tư cách như một đối tượng thẩm mỹ. Về phương diện cấu trúc, tờ tạp chí phải là một chỉnh thể như những tác phẩm nghệ thuật. Nhờ ý thức được điều đó và luôn coi đấy như một nguyên tắc cho sự ổn định nên Sông Hương vẫn thường giữ được chất lượng. Tuy nhiên, cũng có một thời, vì muốn tăng thêm thu nhập, toà soạn đã nhận làm chuyên đề cho ngành này ngành nọ, đưa vào những bài viết sống sít, thiếu chất văn học, phá vỡ cấu trúc tờ báo, đánh mất tư cách đối tượng thẩm mỹ của nó. Khi tờ báo văn học bị tước đoạt tư cách đối tượng thẩm mỹ thì quan hệ giữa nó với chủ thể thẩm mỹ bị rạn vỡ…
Nếu bạn đọc là người “nuôi” số lượng (phần xác) thì bạn viết là người nuôi chất lượng (phần hồn) tờ báo. Cả hai đều quan trọng, có ý nghĩa như nhau. Nó phải là một quan hệ tương hỗ, tương hợp và tương liên trên cơ thể sống của tờ tạp chí. Sông Hương luôn luôn coi trọng và trân trọng đội ngũ cộng tác viên của mình. Chất lượng cộng tác viên đồng nghĩa với chất lượng của tờ báo. Họ là những chủ thể sáng tạo đặc biệt, sáng tạo trong phạm trù cái đẹp, sáng tạo ra những đối tượng thẩm mỹ.
Trong suốt hai mươi lăm năm qua, Sông Hương đã thu hút được các thế hệ cộng tác viên khắp mọi miền đất nước, từ tác giả địa phương đến tác giả trung ương. Đã có hàng ngàn nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình đăng bài trên Sông Hương. Có thể nói hầu hết các cây đa cây đề của nền văn học Việt Nam đều gửi bài cộng tác với tờ báo văn xứ Huế. Ngoài ra, còn có các tác giả Việt kiều và tác giả nước ngoài cũng thường xuyên xuất hiện trên Sông Hương. Qua đó càng khẳng định cái chân lý văn học không có biên giới, tài năng không có biên giới. Chỉ có những người cầm bút tự giới hạn chính mình. Tác phẩm tâm huyết của những người thực tài đều mang trong nó những giá trị nhân loại (bao hàm cả tính nhân văn và cái đẹp) nên nó có khả năng xuyên qua mọi đường biên văn hoá. Cũng có nghĩa khi nó đến với vùng văn hoá nào thì sẽ có hiện tượng giao thoa, cộng sinh với vùng văn hoá đó. Đấy chính là câu trả lời vì sao Sông Hương thường xuyên đăng tải một dung lượng bài vở khá lớn ở nhiều vùng khác mà vẫn giữ được bản sắc riêng của mình. Đây đó, vẫn có người nhầm lẫn bản sắc địa phương với tác giả địa phương. Những tác giả tự giới hạn mình thì làm sao có thể sáng tạo ra được những giá trị riêng mang tính cộng đồng. Bản sắc riêng của một vùng văn hoá là quá trình lựa chọn và tổ hợp những giá trị cá thể mang tính cộng đồng. Bởi vậy, một tờ báo địa phương có bản sắc riêng hay không đều phụ thuộc vào độ nhạy cảm của “bộ lọc” toà soạn. Người trực tiếp điều khiển bộ lọc ấy phải là tổng biên tập. Những tổng biên tập có bản lĩnh thường quyết định xu hướng của tờ báo và tờ báo sẽ mang đậm dấu ấn của họ, kể cả hay và dở. Sông Hương đã có 6 đời tổng biên tập trong hai mươi lăm năm qua. Chính đội ngũ quản lý ấy đã làm nên diện mạo Sông Hương qua từng giai đoạn. Tuy mức độ khác nhau nhưng nhìn chung Sông Hương luôn luôn là tờ tạp chí có đẳng cấp chuyên môn cao trong làng báo văn nghệ nước nhà.
Hai mươi lăm năm song hành với công cuộc đổi mới đất nước, Sông Hương đã thực sự có ích cho đời sống văn nghệ nói riêng cũng như đời sống xã hội nói chung. Với tư cách là một dòng chảy mang đặc trưng bản sắc văn hoá Huế, Sông Hương đã được bạn đọc mến mộ khắp mọi miền trong nước và cả nước ngoài nồng nhiệt đón nhận. Trong phạm trù văn hoá, có thể mặt này mặt kia chưa tương xứng vị trí Trung tâm của Huế nhưng với Sông Hương - một diễn đàn văn học nghệ thuật, chúng tôi xin được mạo muội khẳng định là đã xứng đáng, xứng đáng với đầy đủ ý nghĩa và các thuộc tính của nó.
N.K.T

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)