“Thầy giáo dạy văn” - một thời để nhớ!

15:07 17/04/2009
MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

Giường ngủ đủ kê vừa một chiếc
Bố con vừa đủ chỗ bên nhau.
Vợ làm cán bộ văn thư huyện
Một gánh hai con đủ dãi dầu!

Say sưa anh nói về thơ phú
Cứ ngỡ người nghe có thể no.
Cửa sổ mở ra, làn gió thoảng
Huơng hoàng diệp liễu cứ ùa vô.

Ngồi nghe anh nói mà thương quá!
Thầy giáo như anh quá đỗi nghèo.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm”
Tay mỏi, bờ xa vẫn cố chèo!
                                              XUÂN HOÀNG


Vào đầu năm học 1979 - 1980, tôi đang công tác ở trường Sư phạm 10+3 Quảng Bình thì được điều vào Huế dạy các lớp chuyên văn của Tỉnh. Lúc đó các lớp chuyên văn học ở trường Hai Bà Trưng (Đồng Khánh cũ). Tôi tá túc trong căn hộ tập thể. Đó là căn phòng “như tổ chim treo” theo cách ví von của nhà thơ Hoàng vũ Thuật.

Thời đó cuộc sống của giáo chức nói chung hết sức khó khăn. Chúng tôi thường nói đùa: giáo chức là “nhức cháo”, thầy giáo phải “tháo giày”, nhà trường đành “nhường trà”... Tôi đưa hai thằng con trai đứa lên sáu, đứa lên bốn vào nuôi san sẻ một phần cho vợ đang làm văn thư ở cơ quan Huyện uỷ Bố Trạch. Một hôm nhà thơ Xuân Hoàng đến chơi. Tôi và anh say sưa đàm đạo chuyện văn chương, thế sự. Mấy hôm sau anh mang đến tặng tôi bài thơ “Thầy giáo dạy văn”. Món quà thật bất ngờ. Đã 26 năm trôi qua, tôi cất giữ bài thơ như cất giữ viên ngọc quý. Bài thơ giúp tôi nhớ lại một thời đầy cam go nhưng sâu nặng ân tình, giúp tôi nhớ lại căn phòng “như tổ chim treo” mà cha con tôi từng ở: “Hộ tập thể nằm trên gác xép/ Căn phòng thanh đạm có gì đâu/Một chồng sách cũ, dăm chai nước/ Một chiếc bàn con, một bếp dầu...” Và: “Giường ngủ đủ kê vừa một chiếc/ Bố con vừa đủ chỗ bên nhau/Vợ làm cán bộ văn thư huyện/ Một gánh hai con đủ dãi dầu!”. Điệp từ “một” vừa nói lên sự thiếu thốn về vật chất vừa thể hiện sự thiếu thốn về tình cảm gia đình. Cái gì cũng “một” chỉ có nước là “dăm chai”.

Lúc đó, mới vào Huế, tôi chưa kịp sắm bình chứa nước đun sôi để nguội nên đựng tạm vào mấy cái chai. Có lẽ nhà thơ muốn dùng chi tiết này để đùa tôi: “No nước uống, thiếu cơm ăn” chăng? Hồi đó, chưa nhập được sổ gạo cho các cháu, cha con tôi ăn uống rất kham khổ. Biết hoàn cảnh khó khăn của tôi, bạn bè văn nghệ tổ chức quyên góp cứu trợ. Bát cơm “phiếu mẫu” ấy tôi không bao giờ quên. Đến nay, tôi còn lưu giữ mảnh giấy của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ghi tên những bạn bè đã “nhường cơm”, sẻ áo” cho cha con tôi thời đó. Tội nhất là mấy chú chuột, soong nồi trong phòng tôi đều nhẵn bóng nên: “Chú đành gặm giấy thôi/Đêm nghe tiếng sột soạt/Tôi lén dậy bật đèn/Hốt hoảng nhìn bản nháp/Thấy chẳng còn vẹn nguyên/Bài thơ vừa mới viết/Nói chuyện đời sâu, nông/Chuột gặm mất đoạn kết/Chừng đâu dăm sáu dòng/Thế là tôi vội vội/Giấu thơ vào ngăn bàn/Chỉ sợ chú chuột đói/Lại chén thêm đôi hàng” (Chuột đói). Nghèo như thế nhưng thật vui.

Các bạn thơ Hoàng Vũ Thuật, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Ngô Minh, Lê Đình Ty, Lý Hoài Xuân... thường hay lui tới căn phòng “như tổ chim treo” của tôi. Chúng tôi trò chuyện, đọc thơ: “Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ/Đôi lòng hòa một vị chua cay”. (Nguyễn Bính). Thời đó sao mà hồn nhiên đến thế, yêu đời đến thế! “Say sưa anh nói về thơ phú/Cứ ngỡ người nghe có thể no/Cửa sổ mở ra, làn gió thoảng/Hương hoàng diệp liễu cứ ùa vô”. Hoàng diệp liễu là loại cây trồng rất nhiều ở sân trường Hai Bà Trưng. Bạn tôi, Hải Kỳ đã có những câu thơ khá hay về hoa diệp liễu: “Một chiều bạn rũ tôi sang/Bỗng nhiên hoa diệp liễu vàng thơ ngây/Mùa đông mà lá xanh cây/Cánh hoa muốn gửi, gió bay theo người/Lối mòn chỉ bạn và tôi/Lặng im kẻo chạm vào lời của hoa...” Diệp liễu vàng trở thành nguồn thi hứng cho các thi sĩ. Điều làm tôi ngạc nhiên là làm sao anh Xuân Hoàng lại cảm nhận được mùi hương của hoa diệp liễu? Phải đến khi đọc thơ anh tôi mới để ý cái mùi hương lạ lùng ấy! Nhà thơ đâu chỉ nói mùi hương của diệp liễu vàng. Đó là mùi hương của bao thế hệ “nữ sinh Đồng Khánh” vẫn còn phảng phất trong sân trường. Chính mùi hương ấy, sân trường ấy, căn phòng ấy cũng đã gợi cho tôi bao nguồn thi hứng. Tôi từng viết “những vẫn thơ hái muộn” trong những tháng ngày này. Tôi nhớ, hồi đó có một “nữ sinh Đồng Khánh” thanh mảnh, đài các hay mặc chiếc áo len viền. Nàng rụt rè mang tặng tôi tập thơ “Tâm tình hiến dâng” của Tagor. Nhà nàng có cây vú sữa, gần bờ sông...


Nhà thơ là người giàu lòng trắc ẩn. Nếu không thật sự hiểu và cảm thông với tôi, với tất cả những thầy cô giáo trong thời buổi cam go ấy làm sao anh có thể thốt lên: “Ngồi nghe anh nói mà thương quá/Thầy giáo như anh quá đỗi nghèo!”. Hôm nay tôi không còn “quá đỗi nghèo” nữa. Tôi đã xây dược ngôi nhà hai tầng ở Trường Bia bằng công sức, mồ hôi của chính mình. Tiếc là khi tôi làm nhà xong thì anh Xuân Hoàng đã lâm bệnh, không thể về Huế chia vui với tôi. Biết đâu nhìn thấy sự “đổi đời” của tôi anh lại có thơ tặng. Bây giờ thì anh đã vĩnh viễn ra đi. Mỗi lần đọc lại bài thơ “Thầy giáo dạy văn” tôi ngậm ngùi tưởng nhớ đến anh - người bạn thơ vong niên vô cùng thân thiết của tôi.

M.V.H
(201/11-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…

  • Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê

  • Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.

  • CHU SƠN

    Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.

  • TRẦN DZẠ LỮ

    Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.

  • (SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh.  Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc... 

  • Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.

  • LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.

  • DƯƠNG THỊ NHỤN

    Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

  • LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.

  • Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắnThuyền trưởngRừng xưa xanh lá ;Kiếp chóNhững người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

  • Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê  làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.

  • Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...

  • Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.

  • QUANG VIÊN

    Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…