Đổi mới là tồn tại, chất lượng là danh dự, bản sắc là tôn vinh

11:16 17/07/2008
NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.

Từ đó tới nay, cùng hiện hữu với cái tên con sông thiên nhiên thơ mộng vốn nổi tiếng, tạp chí Sông Hương cũng được nhiều người, nhiều nơi biết đến như một dòng chảy đặc trưng bản sắc văn hoá Huế. Ngay từ khi mới ra đời, Sông Hương đã có diện mạo riêng, giọng điệu riêng và lẳng lặng đi vào lòng độc giả, vào đời sống tinh thần của cộng đồng rộng rãi không chỉ ở trong nước. Có thể nói, lần đầu tiên, nơi đầu tiên giữa miền Trung này, một tờ tạp chí văn nghệ địa phương đã “vượt biên tỉnh lẻ”, đã vượt khỏi cơ chế bán không mua, cho không đọc và mở ra được “thương hiệu” riêng cho mình trong giới hạn của người hâm mộ. Suốt hai mươi lăm năm qua, Sông Hương ngày một khẳng định vị trí của mình, khẳng định sự đóng góp của mình trong công cuộc đổi mới đất nước mà trực tiếp là đổi mới những động thái văn học.
Thế kỷ XX đã qua với nhiều biến đổi sâu sắc về mọi mặt và việc phân kỳ trong lịch sử văn học chúng ta cũng phải gắn với lịch sử cách mạng của dân tộc. Dù theo tiêu chí nào, văn học Việt thế kỷ XX cũng vẫn là một trục dọc đi qua tiền chiến đến kháng chiến rồi về hậu chiến. Trên trục dọc ấy, dấu ấn về thi pháp, về tâm thức của các chủ thể sáng tạo cũng được khu biệt tương ứng với đặc tính của từng giai đoạn. Thời tiền chiến dùng dằng với cái tôi lãng mạn. Thời kháng chiến hăm hở với cái ta phi thường. Về hậu chiến lại day dứt với cái tôi bình thường. Chính giai đoạn văn học tự day dứt với cái tôi bình thường này là bước ngoặt của nhu cầu đổi mới. Tạp chí Sông Hương xuất hiện năm 1983 nhưng đến cuối năm 1986, Đại hội VI của Đảng mới hoạch định đường lối đổi mới và mở đầu quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội chứ không riêng gì văn học. Song, trong lĩnh vực văn học dường như đã có sự manh nha sớm hơn. Ngay sau khi bước ra khỏi chiến tranh, trở lại với cuộc sống đời thường, những người cầm bút đều có một “văn cảnh mới” và bình tĩnh nhìn lại mình, nhìn lại nền văn học nước nhà. Trước đó, cả nước với hai nhiệm vụ chiến lược: kháng chiến giải phóng dân tộc và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, văn học cũng chỉ có thể viết theo hai dòng hiện thực xã hội chủ nghĩa và văn học kháng chiến. Trong khi đó, nhìn qua cửa sổ văn học so sánh, chúng ta thấy thế giới đã mở ra biết bao trào lưu, trường phái và đã đi qua hiện đại tới hậu hiện đại. Nền văn học
Việt lạc hậu không chỉ vì sự tiên tiến của thế giới mà còn vì sự bế tắc, khủng hoảng về lý luận của chúng ta. Với ít nhiều mặc cảm đó, có lúc chúng ta đã nóng vội và muốn đốt cháy giai đoạn bằng cách tự phủ nhận mình. Các luận điểm “văn học phải đạo” hoặc “Ai điếu cho một nền văn học” đã gây nhức nhối cho những cuộc tranh luận. Có ý kiến cho rằng, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là một khái niệm giả, là thứ văn chương ứng dụng, còn với dòng văn học kháng chiến là văn học minh hoạ. Cả hai thứ đó đều nằm trong hệ qui chiếu văn dĩ tải đạo. Sứ mệnh lịch sử của chúng đã qua và không còn cách nào khác hơn để bước vào đổi mới là tuyệt đoạn. Sự chuyển động, trăn trở của văn học ở thời hậu chiến này đã khơi ra một dòng văn học sám hối trước khi nó chìm vào con sông đổi mới. Sông Hương của xứ Huế không hề do dự và đã sớm hoà mình vào con sông đổi mới của văn học nước nhà với phương châm “cái mới phải mạnh mẽ, cái cũ phải sâu sắc và nhìn ra thế giới”.
Sông Hương đã đăng tải khá nhiều bài mạnh mẽ theo xu hướng đổi mới là sự vĩnh biệt quá khứ, là sự cảm hứng về tương lai. Rabelais một tác gia kiệt xuất của nền văn học Pháp từ thời Phục Hưng đã thể hiện khát vọng đổi mới của nhân loại một cách nồng nàn như thế. Lần đầu tiên con người có ý niệm về tương lai thì đồng thời, cũng là lần đầu tiên con người vô tâm phủ nhận quá khứ. Trong một xã hội truyền thống, mọi thứ đều được định sẵn cả rồi, đổi mới là tháo dỡ tất cả những trật tự đó nên người ta rất sợ. Việt là một nước không chỉ có truyền thống mà còn giàu truyền thống nữa. Cũng như ở Liên Xô (cũ), khi khởi xướng đổi mới, đã có không ít nhà văn dị ứng chỉ vì họ quen cơ chế bao cấp, quen cả việc thiếu dân chủ. Dân chủ đối với họ giống như chim tự do bay lượn nhưng cũng phải tự do kiếm ăn mà họ là chim được bảo hiểm trong lồng. Đổi mới tư duy văn học cũng mang màu sắc đổi mới ý thức hệ mà ý thức hệ là những “pháo đài chính trị”. Lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao thể nghiệm đẫm máu về sự bông lông và bông lơn của ý thức hệ. Ở nước ta, công cuộc đổi mới được diễn ra dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng nên mọi việc được suôn sẻ hơn. Tất nhiên cũng không tránh khỏi những vấp váp, những lệch lạc nhất là trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ và báo chí. Nhưng dù sao, với ý thức nhập cuộc sớm, Sông Hương đã có những đóng góp riêng nhất định.
Đặc điểm mang tính bản chất của văn học thời kỳ đổi mới là nhu cầu tự vấn và cảm hứng sự thật. Sự thật văn học không kỳ bí như sự thật lịch sử, cũng không trần trụi như sự thật đời sống mà nó là sự thật thấu thị của linh giác và nhận thức. Mặt nào đó, sự thật văn học giống như một kẻ thóc mách, xếch mé luôn bỡn cợt sự bình yên của trật tự giả dối và thói quen giả dối. Chính vì vậy mà trong nó thường hằng mang mầm mống hiểm hoạ cho “đối tác” của mình. Sông Hương đã từng mắc lỗi “việt vị” và điều đó cũng không có gì là lạ bởi vì quả bóng sự thật bao giờ cũng ở phía sau tính dự báo của văn học. Không khí dân chủ và đối thoại là những thành tố làm nên gương mặt mới của văn học ở thời kỳ này. Tạp chí Sông Hương chúng ta cũng sớm mang gương mặt của sự đổi mới ấy. Trong lĩnh vực khoa học, đổi mới đồng nghĩa với sự phát triển, nâng trình độ, cấp độ còn với văn học thì chưa hẳn thế. Văn học có qui luật riêng, nó vừa đánh thức những quan năng phàm tục vừa đánh thức những ẩn thánh thiêng liêng trong con người để con người vươn tới sự hoàn thiện chính mình. Giá trị cơ bản trong các tác phẩm văn học là ở đấy.
Xem xét quy mô hoặc tầm cỡ một tác phẩm văn học chính là việc định giá giá trị cơ bản đó. Thế nhưng đã có lúc, chúng ta phàn nàn văn học chưa có những tác phẩm ngang tầm tương quan với các giá trị khác của thời đại. Đấy là điều phi lý. Nếu hỏi ngược lại thế nào là ngang tầm thời đại thì câu trả lời sẽ ra sao? Chẳng lẽ văn học cũng phải phát triển ngang tầm các phương tiện thông tin đại chúng, ngang tầm với cái gọi là nền văn hoá nghe nhìn? Những phương tiện kỹ thuật hiện đại ngày hôm nay rồi sẽ trở thành đồ cổ của nghìn năm sau nhưng nghìn năm sau cũng khó có thể có một tác phẩm văn học nào ngang tầm với một kiệt tác ở thiên niên kỷ trước – như Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn. Lẽ vậy, văn học chỉ có thể phát triển theo chiều sâu với biên độ khác chứ không thể phát triển theo “chiều cao”. Trong văn học không có chuyện đứng trên vai người khổng lồ để mình được cao hơn như trong khoa học. Sự sáng tạo văn học là vô phương thừa kế. Không ai để lại kinh nghiệm cho ai được. Ngay cả chủ thể sáng tạo cũng không tự rút ra được kinh nghiệm cho mình. Có chăng thì đó chỉ là sự tự lặp lại bản thân. Quy luật sáng tạo không cho phép, không thừa nhận sự lặp lại. Kinh nghiệm trong sáng tạo văn học chỉ là bó đuốc soi sau lưng mà thôi. Do đặc thù đó, văn học bao giờ cũng phải lần mò tới các giá trị mới và cũng không bao giờ thoả mãn với các giá trị vừa lần mò được ấy. Đấy chính là tính cách mạng của văn học. Song, tính cách mạng ấy nếu đặt vào quỹ đạo truyền thống và các mối quan hệ xã hội khác thì sẽ thấy nó mang một chiều kích thác loạn. Ủng hộ tính cách mạng ấy không đúng lúc, đúng chỗ sẽ dễ đồng loã với sự thác loạn. Sông Hương đã làm như vậy và vô hình trung, từ chỗ mắc lỗi “việt vị” lại dấn thêm mắc lỗi “trước vùng cấm”. Mắc lỗi “trước vùng cấm” thường chỉ bị thẻ vàng nhưng nếu trọng tài nhìn nhầm hoặc “vận dụng” thì cũng có thể bị phạt thẻ đỏ. Trên thực tế, Sông Hương đã bị phạt “thẻ đỏ”. Một lần rồi hai lần! Đấy là những biến cố mang kỷ niệm buồn nhưng dù vậy, khi nhìn lại chặng đường 25 năm hoạt động không thể không nhắc tới. Việc bị phạt “thẻ đỏ” thời ấy đối với Sông Hương là bài học cho cơ quan báo chí còn đến bây giờ, sau một độ lùi lịch sử, tỉnh táo nhìn lại, nó là bài học cho cơ quan chức năng!
Sự khắc khoải thường trực đối với Sông Hương không phải ở chỗ làm sai hay làm đúng mà ở chỗ chất lượng. Chất lượng là danh dự của những tờ báo được bao cấp, là sự sống còn của những tờ báo phải tự lo kinh phí. Song, chất lượng là cái gì thì mỗi tờ báo phải tự xác định cho mình. Với Sông Hương, chất lượng không phải là hàm lượng chất xám, càng không phải là giá trị thông tin mà nó là một lưỡng thể của quan hệ thẩm mỹ. Quan hệ thẩm mỹ là sự “giao hội” giữa chủ thể thẩm mỹ  với đối tượng thẩm mỹ. Độc giả của Sông Hương không chỉ là những người đọc bình thường mà họ còn có tư cách cao hơn là chủ thể thẩm mỹ. Một chủ thể thẩm mỹ trọn vẹn với các yếu tố nhận thức, tình cảm, thị hiếu và lý tưởng. Bởi vậy, tờ tạp chí cũng phải có tư cách như một đối tượng thẩm mỹ. Về phương diện cấu trúc, tờ tạp chí phải là một chỉnh thể như những tác phẩm nghệ thuật. Nhờ ý thức được điều đó và luôn coi đấy như một nguyên tắc cho sự ổn định nên Sông Hương vẫn thường giữ được chất lượng. Tuy nhiên, cũng có một thời, vì muốn tăng thêm thu nhập, toà soạn đã nhận làm chuyên đề cho ngành này ngành nọ, đưa vào những bài viết sống sít, thiếu chất văn học, phá vỡ cấu trúc tờ báo, đánh mất tư cách đối tượng thẩm mỹ của nó. Khi tờ báo văn học bị tước đoạt tư cách đối tượng thẩm mỹ thì quan hệ giữa nó với chủ thể thẩm mỹ bị rạn vỡ…
Nếu bạn đọc là người “nuôi” số lượng (phần xác) thì bạn viết là người nuôi chất lượng (phần hồn) tờ báo. Cả hai đều quan trọng, có ý nghĩa như nhau. Nó phải là một quan hệ tương hỗ, tương hợp và tương liên trên cơ thể sống của tờ tạp chí. Sông Hương luôn luôn coi trọng và trân trọng đội ngũ cộng tác viên của mình. Chất lượng cộng tác viên đồng nghĩa với chất lượng của tờ báo. Họ là những chủ thể sáng tạo đặc biệt, sáng tạo trong phạm trù cái đẹp, sáng tạo ra những đối tượng thẩm mỹ.
Trong suốt hai mươi lăm năm qua, Sông Hương đã thu hút được các thế hệ cộng tác viên khắp mọi miền đất nước, từ tác giả địa phương đến tác giả trung ương. Đã có hàng ngàn nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình đăng bài trên Sông Hương. Có thể nói hầu hết các cây đa cây đề của nền văn học Việt Nam đều gửi bài cộng tác với tờ báo văn xứ Huế. Ngoài ra, còn có các tác giả Việt kiều và tác giả nước ngoài cũng thường xuyên xuất hiện trên Sông Hương. Qua đó càng khẳng định cái chân lý văn học không có biên giới, tài năng không có biên giới. Chỉ có những người cầm bút tự giới hạn chính mình. Tác phẩm tâm huyết của những người thực tài đều mang trong nó những giá trị nhân loại (bao hàm cả tính nhân văn và cái đẹp) nên nó có khả năng xuyên qua mọi đường biên văn hoá. Cũng có nghĩa khi nó đến với vùng văn hoá nào thì sẽ có hiện tượng giao thoa, cộng sinh với vùng văn hoá đó. Đấy chính là câu trả lời vì sao Sông Hương thường xuyên đăng tải một dung lượng bài vở khá lớn ở nhiều vùng khác mà vẫn giữ được bản sắc riêng của mình. Đây đó, vẫn có người nhầm lẫn bản sắc địa phương với tác giả địa phương. Những tác giả tự giới hạn mình thì làm sao có thể sáng tạo ra được những giá trị riêng mang tính cộng đồng. Bản sắc riêng của một vùng văn hoá là quá trình lựa chọn và tổ hợp những giá trị cá thể mang tính cộng đồng. Bởi vậy, một tờ báo địa phương có bản sắc riêng hay không đều phụ thuộc vào độ nhạy cảm của “bộ lọc” toà soạn. Người trực tiếp điều khiển bộ lọc ấy phải là tổng biên tập. Những tổng biên tập có bản lĩnh thường quyết định xu hướng của tờ báo và tờ báo sẽ mang đậm dấu ấn của họ, kể cả hay và dở. Sông Hương đã có 6 đời tổng biên tập trong hai mươi lăm năm qua. Chính đội ngũ quản lý ấy đã làm nên diện mạo Sông Hương qua từng giai đoạn. Tuy mức độ khác nhau nhưng nhìn chung Sông Hương luôn luôn là tờ tạp chí có đẳng cấp chuyên môn cao trong làng báo văn nghệ nước nhà.
Hai mươi lăm năm song hành với công cuộc đổi mới đất nước, Sông Hương đã thực sự có ích cho đời sống văn nghệ nói riêng cũng như đời sống xã hội nói chung. Với tư cách là một dòng chảy mang đặc trưng bản sắc văn hoá Huế, Sông Hương đã được bạn đọc mến mộ khắp mọi miền trong nước và cả nước ngoài nồng nhiệt đón nhận. Trong phạm trù văn hoá, có thể mặt này mặt kia chưa tương xứng vị trí Trung tâm của Huế nhưng với Sông Hương - một diễn đàn văn học nghệ thuật, chúng tôi xin được mạo muội khẳng định là đã xứng đáng, xứng đáng với đầy đủ ý nghĩa và các thuộc tính của nó.
N.K.T

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.