Ngày thơ Việt Nam - ngày hội của mọi người

15:53 13/07/2009
HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

Ngày thơ Việt Nam tại Huế- Ảnh: LVT

Nói như thế cũng có nghĩa là thơ đối với đời sống xã hội và đời sống tinh thần, tâm linh của con người Việt Nam đã là sản phẩm phi vật thể vô giá của dân tộc với những nét đặc sắc riêng trong suốt tiến trình lịch sử thi ca Việt. Nhân dân ta đã từng sáng tạo và phát huy biết bao kiểu, loại văn học và sinh hoạt diễn xướng dân gian thông minh và độc đáo mà những hình thức lễ hội, hát hò, khúc ru, điệu hát giao duyên, huê tình...luôn có sự hiện diện của thơ ca với tư cách là yếu tố nòng cốt.

Có được tên gọi Ngày thơ Việt Nam chính là ý tưởng đầy trăn trở và tâm huyết của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam được sự nhất trí và cộng cảm của mọi người và đã dược “Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương, Bộ văn hoá thông tin có văn bản hướng dẫn các cấp, các ngành tổ chức” (Hữu Thỉnh - Tiền Phong Chủ nhật, số 5, ngày 1/2/2004, Tr.8). Đúng là niềm vui vô hạn không chỉ riêng ai; trước hết, đó là niềm vui của công chúng yêu thơ, của toàn thể những người làm công tác sáng tạo văn học nghệ thuật và của chính bản thân thi ca. Có được ngày thơ này, đời sống thi ca của dân tộc lại có dịp thuận lợi để giao lưu, hội nhập, tiếp biến mạnh mẽ, hấp dẫn và sinh động hơn nữa giữa truyền thống và cách tân; giữa cổ điển và hiện đại; giữa dân tộc và quốc tế, giữa tác giả -  thi ca và độc giả... Cứ như thế,thi ca ngày càng nội cảm, lan sâu vào thế giới thẳm sâu của tâm hồn con người, làm sống lại những giá trị mới; làm cao đẹp và phong phú thêm đời sống tinh thần của con người trên hành trình đi tìm hạnh phúc và những chân giá trị văn hoá-thi ca bổ sung.

Chế Lan Viên đã ví “Thơ hay như người đẹp-Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng”. Có thể từ hệ quy chiếu ấy để nói rằng thơ hay bao giờ cũng trường cửu trong cõi người, cõi thơ, được độc giả đón nhận, yêu quý nồng say. Vẻ đẹp thánh thiện, huyền ảo, cao cả và thanh tân của thi ca-qua thử thách của thời gian và tiếp nhận, nó càng ngời lên thứ ánh sáng mới lạ  và lan toả những rung cảm kỳ diệu, làm khơi dậy những giấc mơ tro vùi, những tâm hồn nguội lạnh; nó chống lại sự già nua và độc ác, giả trá. Thơ vĩnh cửu và cao quý lắm thay!

Tôi hiểu nội hàm của tên gọi Ngày thơ Việt Nam theo nghĩa phổ quát và nghĩa hàm ẩn của nó. Đó không chỉ là sự khuấy động, kích thích không khí thơ, biến nó thành ngày hội trong sinh hoạt, sáng tạo và thưởng thức, giao lưu của công chúng và thi nhân thời họ sống, mà đó còn là sự tái hiện, hội nhập, tiếp bước và nâng cao, làm hiển minh những giá trị thi ca, lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hoá truyền thống của dân tộc tự ngàn xưa. Sự hội nhập, tiếp bước như thế rõ ràng là nó luôn đồng nghĩa với sự tiến bộ, hợp quy luật của nhu cầu sáng tạo, thưởng thức thi ca của con người và của chính bản thân quy luật thi ca. Và, về một ý nghĩa sâu thẳm khác, ngày thơ còn là sự biết ơn tiền nhân, tôn vinh thi ca quá khứ và kỳ vọng vào sự đổi mới của thi ca tương lai.

Một năm, từ khi chính thức có Ngày thơ Việt Nam cho đến nay, mọi miền, từ tỉnh thành đến những huyện thị, làng xã...,  không khí sinh hoạt thơ trở nên sôi nổi. Không chỉ là những ngày hội thơ với Đêm thơ Nguyên Tiêu, mà rải đều khắp trong năm, những ngày hội thơ, những đêm giao lưu thơ, những sinh hoạt thư pháp thơ,câu lạc bộ thơ, kịch thơ, tranh thơ, thả đèn thơ trên sông, thả diều thơ, khắc thơ trên cây, trên đá, đốt trầm xông hương cho những đêm đọc thơ được diễn ra, mang lại sức sống và ý nghĩa mới. Chính những hình thức này có sức vẫy gọi và kích thích, làm sống lại những tiềm năng thơ, tạo ra không khí giao hoà, giao cảm giữa các thế hệ nhà thơ, giữa các kiểu tiếng nói thi ca, giữa công chúng yêu thơ và tác giả, tác phẩm. Thơ không chỉ là hình thức in ấn mà còn là đọc và giao lưu bằng tờ thơ, diễn thơ, ngâm thơ, nhạc thơ. Người tiếp nhận không chỉ là độc giả chủ yếu như lâu nay mà còn là thính giả, khán giả, diễn giả... Không gian, thời gian thơ không còn bó hẹp và đơn điệu mà được mở rộng biên độ,địa bàn, thời điểm; có thể trên sông, trên núi đồi, nơi công viên, nơi làng quê hoặc ở các khu di tích văn hoá nào đấy. Thời gian không chỉ vào dịp lễ tế, hội hè... mà bất cứ lúc nào con người cần đến thơ, có nhu cầu thưởng thức thơ.

Vậy, một giá trị và ý nghĩa mới được đánh thức tiềm lực từ Ngày thơ Việt Nam - nếu có thể nói như vậy - đó là giá trị và ý nghĩa nhân bản-dân chủ-phổ quát của thơ. Thơ tôn vinh con người và cuộc sống, sau đó, cuộc sống và con người lại tôn vinh thơ. Đó là những ứng xử văn hoá đối với thi ca vậy.

Thơ và giá trị thơ, nhân bản thơ, cuộc sống thơ-thơ cuộc sống sẽ bất tử. Ngày thơ Việt Nam - Ngày hội của mọi người.

Huế, đêm Nguyên tiêu Tết Giáp Thân
H.T.H
(181/03-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…

  • Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê

  • Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.

  • CHU SƠN

    Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.

  • TRẦN DZẠ LỮ

    Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.

  • (SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh.  Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc... 

  • Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.

  • LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.

  • DƯƠNG THỊ NHỤN

    Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

  • LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.

  • Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắnThuyền trưởngRừng xưa xanh lá ;Kiếp chóNhững người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

  • Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê  làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.

  • Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...

  • Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.

  • QUANG VIÊN

    Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…