Đổi mới là tồn tại, chất lượng là danh dự, bản sắc là tôn vinh

11:16 17/07/2008
NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.

Từ đó tới nay, cùng hiện hữu với cái tên con sông thiên nhiên thơ mộng vốn nổi tiếng, tạp chí Sông Hương cũng được nhiều người, nhiều nơi biết đến như một dòng chảy đặc trưng bản sắc văn hoá Huế. Ngay từ khi mới ra đời, Sông Hương đã có diện mạo riêng, giọng điệu riêng và lẳng lặng đi vào lòng độc giả, vào đời sống tinh thần của cộng đồng rộng rãi không chỉ ở trong nước. Có thể nói, lần đầu tiên, nơi đầu tiên giữa miền Trung này, một tờ tạp chí văn nghệ địa phương đã “vượt biên tỉnh lẻ”, đã vượt khỏi cơ chế bán không mua, cho không đọc và mở ra được “thương hiệu” riêng cho mình trong giới hạn của người hâm mộ. Suốt hai mươi lăm năm qua, Sông Hương ngày một khẳng định vị trí của mình, khẳng định sự đóng góp của mình trong công cuộc đổi mới đất nước mà trực tiếp là đổi mới những động thái văn học.
Thế kỷ XX đã qua với nhiều biến đổi sâu sắc về mọi mặt và việc phân kỳ trong lịch sử văn học chúng ta cũng phải gắn với lịch sử cách mạng của dân tộc. Dù theo tiêu chí nào, văn học Việt thế kỷ XX cũng vẫn là một trục dọc đi qua tiền chiến đến kháng chiến rồi về hậu chiến. Trên trục dọc ấy, dấu ấn về thi pháp, về tâm thức của các chủ thể sáng tạo cũng được khu biệt tương ứng với đặc tính của từng giai đoạn. Thời tiền chiến dùng dằng với cái tôi lãng mạn. Thời kháng chiến hăm hở với cái ta phi thường. Về hậu chiến lại day dứt với cái tôi bình thường. Chính giai đoạn văn học tự day dứt với cái tôi bình thường này là bước ngoặt của nhu cầu đổi mới. Tạp chí Sông Hương xuất hiện năm 1983 nhưng đến cuối năm 1986, Đại hội VI của Đảng mới hoạch định đường lối đổi mới và mở đầu quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội chứ không riêng gì văn học. Song, trong lĩnh vực văn học dường như đã có sự manh nha sớm hơn. Ngay sau khi bước ra khỏi chiến tranh, trở lại với cuộc sống đời thường, những người cầm bút đều có một “văn cảnh mới” và bình tĩnh nhìn lại mình, nhìn lại nền văn học nước nhà. Trước đó, cả nước với hai nhiệm vụ chiến lược: kháng chiến giải phóng dân tộc và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, văn học cũng chỉ có thể viết theo hai dòng hiện thực xã hội chủ nghĩa và văn học kháng chiến. Trong khi đó, nhìn qua cửa sổ văn học so sánh, chúng ta thấy thế giới đã mở ra biết bao trào lưu, trường phái và đã đi qua hiện đại tới hậu hiện đại. Nền văn học
Việt lạc hậu không chỉ vì sự tiên tiến của thế giới mà còn vì sự bế tắc, khủng hoảng về lý luận của chúng ta. Với ít nhiều mặc cảm đó, có lúc chúng ta đã nóng vội và muốn đốt cháy giai đoạn bằng cách tự phủ nhận mình. Các luận điểm “văn học phải đạo” hoặc “Ai điếu cho một nền văn học” đã gây nhức nhối cho những cuộc tranh luận. Có ý kiến cho rằng, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là một khái niệm giả, là thứ văn chương ứng dụng, còn với dòng văn học kháng chiến là văn học minh hoạ. Cả hai thứ đó đều nằm trong hệ qui chiếu văn dĩ tải đạo. Sứ mệnh lịch sử của chúng đã qua và không còn cách nào khác hơn để bước vào đổi mới là tuyệt đoạn. Sự chuyển động, trăn trở của văn học ở thời hậu chiến này đã khơi ra một dòng văn học sám hối trước khi nó chìm vào con sông đổi mới. Sông Hương của xứ Huế không hề do dự và đã sớm hoà mình vào con sông đổi mới của văn học nước nhà với phương châm “cái mới phải mạnh mẽ, cái cũ phải sâu sắc và nhìn ra thế giới”.
Sông Hương đã đăng tải khá nhiều bài mạnh mẽ theo xu hướng đổi mới là sự vĩnh biệt quá khứ, là sự cảm hứng về tương lai. Rabelais một tác gia kiệt xuất của nền văn học Pháp từ thời Phục Hưng đã thể hiện khát vọng đổi mới của nhân loại một cách nồng nàn như thế. Lần đầu tiên con người có ý niệm về tương lai thì đồng thời, cũng là lần đầu tiên con người vô tâm phủ nhận quá khứ. Trong một xã hội truyền thống, mọi thứ đều được định sẵn cả rồi, đổi mới là tháo dỡ tất cả những trật tự đó nên người ta rất sợ. Việt là một nước không chỉ có truyền thống mà còn giàu truyền thống nữa. Cũng như ở Liên Xô (cũ), khi khởi xướng đổi mới, đã có không ít nhà văn dị ứng chỉ vì họ quen cơ chế bao cấp, quen cả việc thiếu dân chủ. Dân chủ đối với họ giống như chim tự do bay lượn nhưng cũng phải tự do kiếm ăn mà họ là chim được bảo hiểm trong lồng. Đổi mới tư duy văn học cũng mang màu sắc đổi mới ý thức hệ mà ý thức hệ là những “pháo đài chính trị”. Lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao thể nghiệm đẫm máu về sự bông lông và bông lơn của ý thức hệ. Ở nước ta, công cuộc đổi mới được diễn ra dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng nên mọi việc được suôn sẻ hơn. Tất nhiên cũng không tránh khỏi những vấp váp, những lệch lạc nhất là trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ và báo chí. Nhưng dù sao, với ý thức nhập cuộc sớm, Sông Hương đã có những đóng góp riêng nhất định.
Đặc điểm mang tính bản chất của văn học thời kỳ đổi mới là nhu cầu tự vấn và cảm hứng sự thật. Sự thật văn học không kỳ bí như sự thật lịch sử, cũng không trần trụi như sự thật đời sống mà nó là sự thật thấu thị của linh giác và nhận thức. Mặt nào đó, sự thật văn học giống như một kẻ thóc mách, xếch mé luôn bỡn cợt sự bình yên của trật tự giả dối và thói quen giả dối. Chính vì vậy mà trong nó thường hằng mang mầm mống hiểm hoạ cho “đối tác” của mình. Sông Hương đã từng mắc lỗi “việt vị” và điều đó cũng không có gì là lạ bởi vì quả bóng sự thật bao giờ cũng ở phía sau tính dự báo của văn học. Không khí dân chủ và đối thoại là những thành tố làm nên gương mặt mới của văn học ở thời kỳ này. Tạp chí Sông Hương chúng ta cũng sớm mang gương mặt của sự đổi mới ấy. Trong lĩnh vực khoa học, đổi mới đồng nghĩa với sự phát triển, nâng trình độ, cấp độ còn với văn học thì chưa hẳn thế. Văn học có qui luật riêng, nó vừa đánh thức những quan năng phàm tục vừa đánh thức những ẩn thánh thiêng liêng trong con người để con người vươn tới sự hoàn thiện chính mình. Giá trị cơ bản trong các tác phẩm văn học là ở đấy.
Xem xét quy mô hoặc tầm cỡ một tác phẩm văn học chính là việc định giá giá trị cơ bản đó. Thế nhưng đã có lúc, chúng ta phàn nàn văn học chưa có những tác phẩm ngang tầm tương quan với các giá trị khác của thời đại. Đấy là điều phi lý. Nếu hỏi ngược lại thế nào là ngang tầm thời đại thì câu trả lời sẽ ra sao? Chẳng lẽ văn học cũng phải phát triển ngang tầm các phương tiện thông tin đại chúng, ngang tầm với cái gọi là nền văn hoá nghe nhìn? Những phương tiện kỹ thuật hiện đại ngày hôm nay rồi sẽ trở thành đồ cổ của nghìn năm sau nhưng nghìn năm sau cũng khó có thể có một tác phẩm văn học nào ngang tầm với một kiệt tác ở thiên niên kỷ trước – như Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn. Lẽ vậy, văn học chỉ có thể phát triển theo chiều sâu với biên độ khác chứ không thể phát triển theo “chiều cao”. Trong văn học không có chuyện đứng trên vai người khổng lồ để mình được cao hơn như trong khoa học. Sự sáng tạo văn học là vô phương thừa kế. Không ai để lại kinh nghiệm cho ai được. Ngay cả chủ thể sáng tạo cũng không tự rút ra được kinh nghiệm cho mình. Có chăng thì đó chỉ là sự tự lặp lại bản thân. Quy luật sáng tạo không cho phép, không thừa nhận sự lặp lại. Kinh nghiệm trong sáng tạo văn học chỉ là bó đuốc soi sau lưng mà thôi. Do đặc thù đó, văn học bao giờ cũng phải lần mò tới các giá trị mới và cũng không bao giờ thoả mãn với các giá trị vừa lần mò được ấy. Đấy chính là tính cách mạng của văn học. Song, tính cách mạng ấy nếu đặt vào quỹ đạo truyền thống và các mối quan hệ xã hội khác thì sẽ thấy nó mang một chiều kích thác loạn. Ủng hộ tính cách mạng ấy không đúng lúc, đúng chỗ sẽ dễ đồng loã với sự thác loạn. Sông Hương đã làm như vậy và vô hình trung, từ chỗ mắc lỗi “việt vị” lại dấn thêm mắc lỗi “trước vùng cấm”. Mắc lỗi “trước vùng cấm” thường chỉ bị thẻ vàng nhưng nếu trọng tài nhìn nhầm hoặc “vận dụng” thì cũng có thể bị phạt thẻ đỏ. Trên thực tế, Sông Hương đã bị phạt “thẻ đỏ”. Một lần rồi hai lần! Đấy là những biến cố mang kỷ niệm buồn nhưng dù vậy, khi nhìn lại chặng đường 25 năm hoạt động không thể không nhắc tới. Việc bị phạt “thẻ đỏ” thời ấy đối với Sông Hương là bài học cho cơ quan báo chí còn đến bây giờ, sau một độ lùi lịch sử, tỉnh táo nhìn lại, nó là bài học cho cơ quan chức năng!
Sự khắc khoải thường trực đối với Sông Hương không phải ở chỗ làm sai hay làm đúng mà ở chỗ chất lượng. Chất lượng là danh dự của những tờ báo được bao cấp, là sự sống còn của những tờ báo phải tự lo kinh phí. Song, chất lượng là cái gì thì mỗi tờ báo phải tự xác định cho mình. Với Sông Hương, chất lượng không phải là hàm lượng chất xám, càng không phải là giá trị thông tin mà nó là một lưỡng thể của quan hệ thẩm mỹ. Quan hệ thẩm mỹ là sự “giao hội” giữa chủ thể thẩm mỹ  với đối tượng thẩm mỹ. Độc giả của Sông Hương không chỉ là những người đọc bình thường mà họ còn có tư cách cao hơn là chủ thể thẩm mỹ. Một chủ thể thẩm mỹ trọn vẹn với các yếu tố nhận thức, tình cảm, thị hiếu và lý tưởng. Bởi vậy, tờ tạp chí cũng phải có tư cách như một đối tượng thẩm mỹ. Về phương diện cấu trúc, tờ tạp chí phải là một chỉnh thể như những tác phẩm nghệ thuật. Nhờ ý thức được điều đó và luôn coi đấy như một nguyên tắc cho sự ổn định nên Sông Hương vẫn thường giữ được chất lượng. Tuy nhiên, cũng có một thời, vì muốn tăng thêm thu nhập, toà soạn đã nhận làm chuyên đề cho ngành này ngành nọ, đưa vào những bài viết sống sít, thiếu chất văn học, phá vỡ cấu trúc tờ báo, đánh mất tư cách đối tượng thẩm mỹ của nó. Khi tờ báo văn học bị tước đoạt tư cách đối tượng thẩm mỹ thì quan hệ giữa nó với chủ thể thẩm mỹ bị rạn vỡ…
Nếu bạn đọc là người “nuôi” số lượng (phần xác) thì bạn viết là người nuôi chất lượng (phần hồn) tờ báo. Cả hai đều quan trọng, có ý nghĩa như nhau. Nó phải là một quan hệ tương hỗ, tương hợp và tương liên trên cơ thể sống của tờ tạp chí. Sông Hương luôn luôn coi trọng và trân trọng đội ngũ cộng tác viên của mình. Chất lượng cộng tác viên đồng nghĩa với chất lượng của tờ báo. Họ là những chủ thể sáng tạo đặc biệt, sáng tạo trong phạm trù cái đẹp, sáng tạo ra những đối tượng thẩm mỹ.
Trong suốt hai mươi lăm năm qua, Sông Hương đã thu hút được các thế hệ cộng tác viên khắp mọi miền đất nước, từ tác giả địa phương đến tác giả trung ương. Đã có hàng ngàn nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình đăng bài trên Sông Hương. Có thể nói hầu hết các cây đa cây đề của nền văn học Việt Nam đều gửi bài cộng tác với tờ báo văn xứ Huế. Ngoài ra, còn có các tác giả Việt kiều và tác giả nước ngoài cũng thường xuyên xuất hiện trên Sông Hương. Qua đó càng khẳng định cái chân lý văn học không có biên giới, tài năng không có biên giới. Chỉ có những người cầm bút tự giới hạn chính mình. Tác phẩm tâm huyết của những người thực tài đều mang trong nó những giá trị nhân loại (bao hàm cả tính nhân văn và cái đẹp) nên nó có khả năng xuyên qua mọi đường biên văn hoá. Cũng có nghĩa khi nó đến với vùng văn hoá nào thì sẽ có hiện tượng giao thoa, cộng sinh với vùng văn hoá đó. Đấy chính là câu trả lời vì sao Sông Hương thường xuyên đăng tải một dung lượng bài vở khá lớn ở nhiều vùng khác mà vẫn giữ được bản sắc riêng của mình. Đây đó, vẫn có người nhầm lẫn bản sắc địa phương với tác giả địa phương. Những tác giả tự giới hạn mình thì làm sao có thể sáng tạo ra được những giá trị riêng mang tính cộng đồng. Bản sắc riêng của một vùng văn hoá là quá trình lựa chọn và tổ hợp những giá trị cá thể mang tính cộng đồng. Bởi vậy, một tờ báo địa phương có bản sắc riêng hay không đều phụ thuộc vào độ nhạy cảm của “bộ lọc” toà soạn. Người trực tiếp điều khiển bộ lọc ấy phải là tổng biên tập. Những tổng biên tập có bản lĩnh thường quyết định xu hướng của tờ báo và tờ báo sẽ mang đậm dấu ấn của họ, kể cả hay và dở. Sông Hương đã có 6 đời tổng biên tập trong hai mươi lăm năm qua. Chính đội ngũ quản lý ấy đã làm nên diện mạo Sông Hương qua từng giai đoạn. Tuy mức độ khác nhau nhưng nhìn chung Sông Hương luôn luôn là tờ tạp chí có đẳng cấp chuyên môn cao trong làng báo văn nghệ nước nhà.
Hai mươi lăm năm song hành với công cuộc đổi mới đất nước, Sông Hương đã thực sự có ích cho đời sống văn nghệ nói riêng cũng như đời sống xã hội nói chung. Với tư cách là một dòng chảy mang đặc trưng bản sắc văn hoá Huế, Sông Hương đã được bạn đọc mến mộ khắp mọi miền trong nước và cả nước ngoài nồng nhiệt đón nhận. Trong phạm trù văn hoá, có thể mặt này mặt kia chưa tương xứng vị trí Trung tâm của Huế nhưng với Sông Hương - một diễn đàn văn học nghệ thuật, chúng tôi xin được mạo muội khẳng định là đã xứng đáng, xứng đáng với đầy đủ ý nghĩa và các thuộc tính của nó.
N.K.T

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).

  • TRẦN THỊ TRƯỜNGBước chân vào cái ngõ 45 Phan Bội Châu gặp mùi bánh trứng nướng thơm phức bao trùm, ngỡ ngàng: “Ông Trần Đình Hiến còn là một chủ lò bánh?”. Nhưng: - Không phải đâu. Khu nhà này hầu hết là mấy anh em ruột chúng tôi sinh sống. Lò bánh này của một chú, còn các người khác mỗi người một nghề. Các em tôi đều chịu khó. Vâng, bây giờ ai chẳng lấy chịu khó làm đầu...

  • Chính Bùi Hiển dẫn lời bạn ông nói rằng văn ông đi từ hướng ngoại đến hướng nội, hàm ý chín dần, mỗi ngày mỗi gần hơn với cốt lõi văn chương. Tôi không thấy như vậy.

  • NGÔ MINHSau hai cuộc hành trình vất vả hơn 2600 cây số đi về Đại hội Nhà văn khu vực miền Trung ở Nha Trang giữa tháng 3, rồi Đại hội Nhà Văn Việt Nam VII, bắt đầu từ 22/4 đến 10 giờ rưỡi đêm 27/4 tôi mới về tới nhà mình ở Huế, ngồi trước máy vi tính viết những dòng  buồn vui lẫn lộn.

  • THANH THẢO                           6 năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương trình, trong đêm ấy Tế Hanh vì quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của mình đầu năm 1974, ông đã bị xuất huyết não. 6 năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản vì ông không nói được. Tôi nghĩ, 6 năm nay, Tế Hanh chỉ còn trò chuyện với dòng sông của mình, dòng sông của đời mình, trong im lặng. Vì thế, những cuộc trò chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.

  • LTS: Kể từ khi xuất hiện với bạn đọc qua bài bút ký đầu tiên có tên là Gọi nắng và chùm thơ Đời chị trên tạp chí Sông Hương lúc tuổi đời mới hai mươi, gần 10 năm qua, Văn Cầm Hải là một “hiện tượng văn học” của nhiều cuộc tranh luận vì phong cách lập ngôn mới lạ của mình. Bước vào mùa xuân mới, đúng vào ngày sinh nhật 20/1/2005 của mình, Văn Cầm Hải đã chính thức trở thành một trong những nhà văn trẻ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Vốn là người kín tiếng đến mức “lập dị” nhưng nhân dịp xuân vui này, nhà văn Văn Cầm Hải đã “bật mí” nhiều điều, từ A đến Z trong cuộc sống của anh  với Sông Hương.

  • Sáng ngày 24-2-2005 tại trụ sở 26 Lê Lợi - Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận. Nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh, thành phố Huế và anh chị em văn nghệ sĩ đã tới dự. Sông Hương trân trọng giới thiệu “điếu văn” do nhà thơ Võ Quê đọc trong lễ tưởng niệm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Tưởng nhớ nhà thơ Lương An)Năm 1984, sau khi cùng anh chị em văn nghệ đón di hài nhà thơ Vĩnh Mai về Huế, nhà thơ Lương An - người đồng hương, người bạn thơ gần gũi với Vĩnh Mai đã viết bài "Đón anh về lại Huế thơ": Anh về lại Huế hôm nay / Huế đang mưa bỗng tạnh ngày nắng xuân...

  • HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

  • TRUNG SƠN(Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà thơ Phùng Quán)I. Hơn mười năm trước - mùa hè 1992, một cuộc “khai quật” ở Huế đã làm chấn động dư luận. Trong lúc đào hố móng xây dựng một căn nhà tại trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế, người ta đã phát hiện một ngôi mộ tập thể gồm 17 bộ hài cốt, một số vũ khí, đạn và 3 kỷ vật còn ghi rõ tên hiệu, đơn vị Vệ quốc đoàn hồi năm 1946.

  • XUÂN TÙNG          Chòi trống im lìm, khách ngẩn ngơ          Bình khô, rượu cạn, điếu chăng tơ          Bao giờ điếu lại reo êm ái          Nhà rộn tiếng cười, ấm giọng thơ...

  • TRẦN THỊ LINH CHIXuất thân gia đình quan lại, học giỏi nhưng lại không chịu theo đuổi đến nơi đến chốn để khoa bảng đề tên, tiến bước công danh hầu nối nghiệp nhà, cha tôi bỏ dở chương trình tú tài sau khi đậu thành chung, làm một công chức kiếm sống qua ngày, dành hết cuộc đời cho văn học. Năng khiếu phê bình của ông đã biểu hiện ngay từ thời còn đi học.

  • PHAN TRUNG THÀNHTháng giêng năm 2003, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm thơ Nguyên Tiêu lần thứ I, theo sáng kiến thành lập “Ngày thơ Việt Nam” của Hội Nhà văn Việt Nam.

  • BẢO CƯỜNGLTS: Trên 40 năm ngâm thơ và đệm sáo cho thơ từ ra Bắc, từ trong nước ra nước ngoài, Bảo Cường hiện là một nghệ sỹ lão luyện trong nghề. Bài viết dưới đây, như chính tác giả nói: “Với lòng thiết tha mong mỏi bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ ngày một phát triển, để mọi người và nhất là giới trẻ yêu thơ có cơ hội tìm hiểu đào sâu về hai bộ môn này.”

  • TRẦN NINH HỒLTS: Trần Ninh Hồ tên thật là Trần Hữu Hỷ. Lính Đông Bộ 1971 - 1976, 1977 - Trưởng ban Văn thơ báo Văn Nghệ. Nguyên chủ nhiệm Bảo tàng Văn học Việt …Bình quân cứ độ dăm năm, nhà thơ Trần Ninh Hồ lại có một "đợt" xuất bản thơ. Anh là cây bút sung sức trong suốt mấy thập niên vừa qua của nền thơ hiện đại Việt Nam, từ cuộc chiến tranh chống Mỹ cho suốt đến những ngày hôm nay...Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã có cuộc trao đổi với nhà thơ Trần Ninh Hồ trong một cách nhìn riêng biệt.

  • INRASARACác hội thảo bàn về nâng cao tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học đã lôi kéo không ít nhà văn tham gia bàn cãi sôi nổi. Là tín hiệu đáng mừng: văn học Việt đang tự ý thức, tự phản tỉnh (self consciousness).

  • TRẦN ĐÌNH SỬThực tế nghèo nàn về thành tựu khoa học xã hội và nhân văn của chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trong lối tư duy độc tôn một thời ở lĩnh vực học thuật. Cội nguồn sâu xa của lối tư duy ấy đang nằm trong di chứng của thời kì chiến tranh kéo dài ba mươi năm và cuộc đấu tranh ý thức hệ tàn khốc.

  • NGUYỄN THANH MỪNGKhái niệm nhà văn làm báo chắc không phải là chuyện lạ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Cánh cửa mở ra cho nhà văn tung hoành trên “sân cỏ” báo chí không đơn thuần là chuyện “cơm áo không đùa...” mà vì nơi đây, nhà văn thể hiện mình ở nhiều góc độ khác nhau, hiểu từ hai phía, nhu cầu biểu lộ tâm trạng của họ và nhu cầu của đời sống đất nước và nhân dân đòi hỏi ở họ.

  • TRƯỜNG NHÂNLTS: Cũng như cuộc đời, văn nghệ có biết bao buồn vui. Nhà văn cũng là người, cho nên có lúc cũng dở khóc dở cười bởi những chuyện ngoài văn chương. “Vạch túi cho người xem... bia” là câu chuyện hậu kì để bạn đọc chia sẻ với chuyện bếp núc làng văn.

  • NGUYÊN ANMột nhà văn đồng hương cao niên hỏi tôi:- Sao bây giờ ta mới quen nhau nhỉ?Tôi chưa kịp trả lời, ông đã nói tiếp:- Thôi, từ nay nhé!