Trang thơ Rainer Maria Rilke

15:25 06/04/2022


RAINER MARIA RILKE

Ảnh: internet

Rainer Maria Rilke (1875 - 1926), được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi. Tác phẩm của Rilke bao gồm tiểu thuyết, một số tuyển tập thơ, và thư từ. Trong tác phẩm của mình, mà một số nhà phê bình miêu tả là “dụ hoặc”, Rilke “gợi lên những hình ảnh, làm bật lên khó khăn của sự hiệp thông với những điều không diễn tả được trong một thời đại mất niềm tin, cô độc và bất an”.

Những bài thơ dưới đây lấy từ những tuyển tập thơ của Rilke, được chuyển dịch sang Anh ngữ.

                        Anh Nhi dịch và giới thiệu

Những bài Sonnet gửi Orpheus, phần hai - bài thứ 29(1)

Người bạn trầm lặng muôn trùng xa cách,
hãy cảm nhận hơi thở bạn vẫn trải khắp không gian.
Hãy tự vang lên giữa những xà rầm
của những tháp chuông tối. Bất cứ gì ăn thịt
bạn sẽ lớn mạnh nhờ thức bổ dưỡng này.
Biết tới sự đổi thay hoàn toàn.
Trải nghiệm nào đau đớn nhất với bạn?
Nếu thức uống đắng, hãy biến thành rượu.
Trong đêm tối mênh mông này, hãy là quyền năng ma thuật
ở ngã ba đường những giác quan của bạn,
ý nghĩa sự kỳ lạ của chúng thình lình được khám phá.
Và nếu thế gian quên
bạn, hãy nói với mặt đất nín thinh: Tôi đang trôi chảy.
Với dòng nước cuồn cuộn hãy nói: Tôi có mặt.



Cô độc(2)

Cô độc như một hạt mưa.
Nhấc mình lên từ biển để đón buổi tối sắp đến
và từ những đồng bằng xa xôi hướng về
những bầu trời nơi nó đều đặn được cất giữ.
Và rơi xuống những thành phố từ bầu trời - những hồ chứa.
Những hạt mưa rơi xuống vào những giờ ánh sáng chập chờn hỗn tạp
khi những ngõ hẻm thành phố chuyển sáng
và những thân thể tách nhau ra trong sự vỡ mộng
buồn bã vì chẳng tìm thấy gì;
và khi những người ghét bỏ nhau
phải ngủ chung giường:
rồi, cô độc trôi chảy cùng sự trôi chảy của những dòng sông…



Tôi yêu những giờ tăm tối của tồn tại mình(3)

Tôi yêu những giờ tăm tối của tồn tại mình.
Tâm trí tôi vùi sâu vào chúng.
Ở đó tôi có thể tìm thấy, như trong những lá thư cũ,
những ngày tháng cuộc đời, tôi đã sống,
và giữ như một huyền thoại, và hiểu thấu.
Rồi sự thông tri ló hiện: Tôi có thể mở
ra một thế giới khác rộng dài và vô tận.
Và thế tôi đôi khi như một cái cây
rì rào trên một mộ phần
và biến thành thật giấc mơ
của người những chiếc rễ đang sống của cây
ôm ghì:
một giấc mơ đã từng bị đánh mất
giữa những nỗi buồn và những bài ca.

 

_________________________

(1) Dịch từ cuốn Duino Elegies and The Sonnets to Orpheus, Rainer Maria Rilke, A.Poulin, Jr. chuyển dịch sang Anh ngữ, Houghton Miflin Company Boston, pg.195.

(2) Dịch từ cuốn Rainer Maria Rilke, Selected Poems, Susan Ranson và Marielle Sutherland chuyển dịch sang Anh ngữ, Robert Vilain biên tập, giới thiệu, chú thích, Oxford University Press, 2011, pg.31-33.

(3) Dịch từ cuốn Rilke’s Book of Hours: Love Poems to God, Anita Barrows và Joanna Macy chuyển dịch sang Anh ngữ, Riverhead Books, New York, 1996, pg.51.


(TCSH44SDB/03-2022)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis

  • Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.

  • Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch

  • Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp

  • Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.

  • XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)

  • Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).

  • Ludmila TatianitchevaTuổi tôi

  • OCTAVIO PAZ        Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt

  • LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.

  • LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)

  • WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)

  • FRED MARCHANT (Mỹ)                 Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.

  • Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

  • PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP

  • LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.

  • Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.

  • RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865  Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào  chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.

  • ALLEN GINSBERG(Tôn vinh Kenneth Koch) (1)LGT: Allen Ginsberg (1926 - 1997): là một nhà thơ hậu hiện đại Mỹ nổi tiếng trong trào lưu Beat cùng với Jack Kerowack và Williams S. Burroughs. Tốt nghiệp đại học năm 1948, làm đủ thứ nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị.