RAINER MARIA RILKE
Ảnh: internet
Rainer Maria Rilke (1875 - 1926), được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi. Tác phẩm của Rilke bao gồm tiểu thuyết, một số tuyển tập thơ, và thư từ. Trong tác phẩm của mình, mà một số nhà phê bình miêu tả là “dụ hoặc”, Rilke “gợi lên những hình ảnh, làm bật lên khó khăn của sự hiệp thông với những điều không diễn tả được trong một thời đại mất niềm tin, cô độc và bất an”. Những bài thơ dưới đây lấy từ những tuyển tập thơ của Rilke, được chuyển dịch sang Anh ngữ. Anh Nhi dịch và giới thiệu |
Những bài Sonnet gửi Orpheus, phần hai - bài thứ 29(1)
Người bạn trầm lặng muôn trùng xa cách,
hãy cảm nhận hơi thở bạn vẫn trải khắp không gian.
Hãy tự vang lên giữa những xà rầm
của những tháp chuông tối. Bất cứ gì ăn thịt
bạn sẽ lớn mạnh nhờ thức bổ dưỡng này.
Biết tới sự đổi thay hoàn toàn.
Trải nghiệm nào đau đớn nhất với bạn?
Nếu thức uống đắng, hãy biến thành rượu.
Trong đêm tối mênh mông này, hãy là quyền năng ma thuật
ở ngã ba đường những giác quan của bạn,
ý nghĩa sự kỳ lạ của chúng thình lình được khám phá.
Và nếu thế gian quên
bạn, hãy nói với mặt đất nín thinh: Tôi đang trôi chảy.
Với dòng nước cuồn cuộn hãy nói: Tôi có mặt.
Cô độc(2)
Cô độc như một hạt mưa.
Nhấc mình lên từ biển để đón buổi tối sắp đến
và từ những đồng bằng xa xôi hướng về
những bầu trời nơi nó đều đặn được cất giữ.
Và rơi xuống những thành phố từ bầu trời - những hồ chứa.
Những hạt mưa rơi xuống vào những giờ ánh sáng chập chờn hỗn tạp
khi những ngõ hẻm thành phố chuyển sáng
và những thân thể tách nhau ra trong sự vỡ mộng
buồn bã vì chẳng tìm thấy gì;
và khi những người ghét bỏ nhau
phải ngủ chung giường:
rồi, cô độc trôi chảy cùng sự trôi chảy của những dòng sông…
Tôi yêu những giờ tăm tối của tồn tại mình(3)
Tôi yêu những giờ tăm tối của tồn tại mình.
Tâm trí tôi vùi sâu vào chúng.
Ở đó tôi có thể tìm thấy, như trong những lá thư cũ,
những ngày tháng cuộc đời, tôi đã sống,
và giữ như một huyền thoại, và hiểu thấu.
Rồi sự thông tri ló hiện: Tôi có thể mở
ra một thế giới khác rộng dài và vô tận.
Và thế tôi đôi khi như một cái cây
rì rào trên một mộ phần
và biến thành thật giấc mơ
của người những chiếc rễ đang sống của cây
ôm ghì:
một giấc mơ đã từng bị đánh mất
giữa những nỗi buồn và những bài ca.
_________________________
(1) Dịch từ cuốn Duino Elegies and The Sonnets to Orpheus, Rainer Maria Rilke, A.Poulin, Jr. chuyển dịch sang Anh ngữ, Houghton Miflin Company Boston, pg.195.
(2) Dịch từ cuốn Rainer Maria Rilke, Selected Poems, Susan Ranson và Marielle Sutherland chuyển dịch sang Anh ngữ, Robert Vilain biên tập, giới thiệu, chú thích, Oxford University Press, 2011, pg.31-33.
(3) Dịch từ cuốn Rilke’s Book of Hours: Love Poems to God, Anita Barrows và Joanna Macy chuyển dịch sang Anh ngữ, Riverhead Books, New York, 1996, pg.51.
(TCSH44SDB/03-2022)
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)