Nguyễn Thị Thúy Hạnh từng viết “Thơ ca, chẳng phải sao, trước hết là lời tự sự của/ về thân phận?” (Những chuyển động chữ), và trong một bài thơ khác, lại viết: “Sau lưng tôi/ Một chiếc bóng bị thương” (Hà Nội)...
Quả nhiên thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh với những sắc thái lạ, đi ra từ trái tim một cách như nhiên, với những bước chân thanh tân, rất mới của chữ. Chữ như những viên nén chạm đến là có thể vỡ ra, găm những mảnh xúc cảm sắc nhọn vào tâm thức người đọc, phái sinh cộng cảm bùng vỡ. Thơ Hạnh mang tâm thế của một người trẻ, mạch thơ đã ắp đầy truyền lửa suy tư…
Nguyễn Thị Thúy Hạnh hiện đang công tác ở Viện Văn học Việt Nam, đã xuất bản tập “Di chữ” năm 2017. Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ của Thúy Hạnh vừa gửi đến.
S.H
NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH
Mỹ dạ ngâm
Những bàn tay tự tử trong gió
những cánh hoa đội mồ để múa
tôi ngắm đêm
mưa như sóng mênh mông
Mưa trong trăng
Vành môi cong cong
Lấp lánh nước mắt
Thập giá thơ
Treo những cơn đau
Kéo dài nghìn năm
Mỏi thân xác tôi
Những câu thơ chữ thập
Ngày hôm sau bình yên
Cơn gió anh hôn những giọt nước mắt
Trên môi em
Bóc một lớp vỏ
bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ bóc một lớp vỏ thấy lộ ra
một thân thể phì nhiêu chữ
mọc lên như cái cây xanh tốt mà
nỗi buồn là con sâu đo bầu trời
dằng dặc bản nháp gió
nào hãy cởi ra từng nỗi đau đớn
cởi bỏ nỗi tủi hổ để nhìn ngắm
một tâm thân trong trắng, nơi cái chết
chờ đợi ta phía trước, rất đỗi mịn êm
tựa cách ta bước vào mặt trăng - bào thai trong bụng đêm
Mù(ư)a thu
một chiều không muốn gặp ai
buông bóng
cựa quậy trong lòng tay cái vành tai đứt
vẽ em hàng mi nhiệt đới đôi mắt như rừng
căn phòng trăng non
mưa rụng đầy tháng tám
mưa rơi như tiếng người già nhai trầu
rồi tạnh bằng màu rong rêu
(TCSH351/05-2018)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.