Trang thơ da đen

09:58 30/08/2019

LTS. Thơ ca vốn có truyền thống lâu đời. Thơ ca của các dân tộc da đen cũng mang những đặc thù ấy. Từ những nhà thơ ở xứ Akhenaton bên Ai Cập (Thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên) cho đến Gwendolyn Brooks, Leroi Jones và những giọng thơ mạnh mẽ của các nhà thơ Mỹ đương thời, chặng đường ấy tính ra đã mấy ngàn năm. 

Nguyên tác tiếng Anh tập thơ "3000 năm thơ da đen" Fawcett xuất bản năm 1971 - Ảnh: openlibrary.org

Trong tập "3000 năm thơ da đen" hai nhà biên tập Alan Lomax và Raoul Abdul đã tập hợp và giới thiệu tất cả những khuôn mặt thơ ca nổi tiếng của người da đen ở châu Phi, châu Âu, châu Mỹ.
Dưới đây là ba bài thơ chọn ra từ trong tuyển tập "3000 năm thơ da đen" ấy.


 

MUHAMMAD AL-FITURI (Sudan)

Muhammad Al-Fituri là con của một gia đình có mẹ là người Ai Cập và cha là người Sudan. Ông đã xuất bản 2 tập thơ và đã nổi tiếng trong lãnh vực thơ ca. Hiện thời ông sống ở Alexandria (Ai Cập).


Tôi là một người da đen

Hãy nói thế đi và la to lên
Hãy nói thế đi và không xấu hổ
Không ngại ngùng
Hãy mặt giáp mặt các đám đông
Tôi là một người da đen
Cha thuộc dòng họ da đen
Và mẹ là người da đen
Tôi đen
Đen mà tự do
Tôi có quyền sở hữu tự do
Quê hương tôi - Châu Phi
Muôn năm - Quê hương tôi
Muôn năm - Châu Phi

Quê hương tôi bọn người da trắng đã đày đọa
Đã bị bọn áp bức hành hạ khi chiếm giữ
Xin hãy để đời tôi trở thành lễ vật hiến dâng
Và như tôi, các con tôi sẽ là những người tuẫn đạo
Đằng sau cái chết và đằng sau quê hương
Tiếng gào thét của tổ tiên tôi vọng về
Con cháu của ta ơi
Các con vẫn còn bị tách khỏi di sản các con
Cho đến khi nào gió quét sạch tro tàn
                             của những tên khủng bố

Các con ơi, các con vẫn còn bị ngăn cách cha các con
Cho đến khi nào kẻ xâm lược gục ngã thảm khốc
Bị tước hết mọi dấu hiệu áp bức
Cho đến khi nào quê hương nổ tung ánh sáng
Và trong chiến thắng, lá cờ đen tỏa sáng rực rỡ
Cho đến khi nào tuyến đầu lịch sử đáp lại
Trong niềm kiêu hãnh hân hoan.

Bình minh đập nát những thành trì tăm tối
Các con hãy lắng nghe khúc hát chiến thắng
Vì ở đây những kẻ áp bức cúi đầu nhận thất bại
Rơi vào vực thẳm của kinh hoàng
Ở đây, dân tộc ta đã từ chốn hôn mê
ngực trần đứng dậy
Trận đại hồng thủy màu đen đang chảy tràn qua
thành đá vững chắc
Nào, các con hãy chứng kiến đi
Đây châu Phi vĩ đại
đang lấp lánh trong ánh bình minh
.


 

LANGSTON HUGHES (Mỹ)

Langston Hughes (1902-1967) là nhà thơ người Mỹ da đen nổi tiếng bậc nhất. Ông sinh ở Jophin, bang Missouri, Hoa Kỳ. Thơ của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. "Điệu Blues mệt mỏi”(1926) là tập thơ đầu tiên; "Con báo và ngọn roi”(1967) là tập thơ cuối cùng trong 10 tập thơ được xuất bản của ông.




Không hối tiếc

Vì yêu thương
Không hối tiếc
Dù lòng tốt
Mãi phí đi
Vì yêu thương,
Không hối tiếc
Dù đền đáp
Chẳng bao giờ



 

ROLAND TOMBEKAI DEMPSTER (Libêria)

Roland Tombekai Demspter tốt nghiệp ở trường đại học Liberia, sau đó ông học khoa báo chí ở Mỹ. Trở về nước ông làm Tổng biên tập tờ báo The Liberian Age. Ông đã xuất bản nhiều tác phẩm thơ ca và văn xuôi.




 

Lời cầu Châu Phi

Tôi không phải là anh
thế mà anh chẳng muốn
cho tôi một cơ may
chẳng muốn để tôi là TÔI.

"Nếu tôi là anh"
nhưng anh biết
Tôi không phải là anh,
thế mà anh chẳng muốn
để tôi là TÔI.

Anh can thiệp, xen vào
công việc của tôi
như thể là của anh
như thể anh là tôi

Anh bất công, khờ dại,
xuẩn ngốc khi nghĩ rằng
tôi có thể là anh,
tôi nói năng, hành động
và suy nghĩ như anh.

Thượng đế đã làm tôi là TÔI
Thượng đế đã làm anh là ANH
Thì hãy vì Người
Để tôi là TÔI
.

TRẦN VĂN PHƯƠNG dịch
(TCSH46/04-1991)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.

  • OCTAVIO PAZ

    (Nobel Văn Chương 1990)

  • Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn  Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).

  • Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp

  • LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.

  • Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady  Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans

  • F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.

  • Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.

  • Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.

  • Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

  • Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.

  • L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.

  • L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.

  • Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.

  • Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.

  • PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính

  • LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.

  • PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)