VĂN CAO
Ảnh: internet
SÁNG THỨ 1
Một sáng ngủ dậy cả thành phố biến đi đâu mất
Không còn một bóng người
Im lặng
Những hồ nước sâu thăm thẳm
Mặt đất đỏ như màu gạch nung
Như mặt quả núi lửa
Anh đi tìm em
Tìm dấu vết của những con đường
Chúng ta thường đi lại
Và đi tới một nơi không còn gì để lại
Giữa mênh mông tôi gọi em mãi mãi
Thế kỷ chúng ta
đứng lại nơi đây
Em ở đâu ?
Thế kỷ chúng ta còn đang tiếp tục
Trên trái đất này
hay dừng lại nơi đây
Giữa mênh mông tôi gọi em mãi mãi.
SÁNG THỨ 2
Buổi sáng nay không nghe tiếng chim hót
Buổi sáng không có trong sự thực
Tôi bước đi không nghe tiếng chân đi
và thành phố theo tôi cùng im lặng
Tất cả những con người
Chỉ thấy mắt đen lay láy
Cả tiếng xe chạy không thành tiếng
Tại sao, tại sao
Không ai nhìn miệng tôi đang gào thét không ra tiếng
Trong kinh hoàng tôi chạy điên dại
Một mình
Giữa thành phố mọi người im lặng bước
Tại sao, tại sao không còn tiếng nói
Không một tiếng động, không còn sự sống
Một thành phố sa mạc không nghe gió thổi
Những người như bị đẩy
Đi qua lại
Hình như cuộc sống nơi đây đã bị đày trong im lặng
SÁNG THỨ 3
Buổi sáng nay không phải mình thức dậy
Một người nào trong tôi đang thở
Trước mặt tôi buồn nửa ngày nửa đêm len lỏi
Nửa phố mặt trăng , nửa phố mặt trời
Từ khi ấy chúng tôi hai người suy nghĩ
Hai kẻ thù nhau
Hai thái cực tâm hồn
Hai người ấy trong một người chịu đựng
Mưu hại lẫn nhau
Vu cáo rình mò nguyền rủa chịu đựng
Không biết ngày đêm không biết thật hư
Từ phút ấy tôi không còn thật nữa.
SÁNG THỨ 4
Buổi sáng nay phố phường như mở hội
Một con người đeo mặt nạ đi chơi
Cuộc đời bên ngoài đang nhảy múa
vui lên cành non
Lá bàng trên phố dài màu ngọc
Xuân tháng hai
Các hàng rượu bên đường
Tơ lụa pha lê hoa giấy
Những mặt nạ gặp nhau chào hỏi
Bọt bia
Những em bé mùa xuân máu lên da thịt
Ngồi đập nút chai làm tiền bạc chơi xuân
Mở tròn mắt nhìn
Kinh ngạc
Họ vui làm sao
Ô kìa
Nước mắt mồ hôi
Sao chảy ra trên từng mặt nạ con người
Vội vàng lau mồ hôi và nước mắt
Trên mặt nạ giấy bồi.
SÁNG THỨ 5
Trong gian phòng trong suốt như thủy tinh
Những cánh cửa đều khóa chặt
Em ở đây với anh
Cho hơi lạnh sáng mùa xuân náo nức
Thịt da em cho anh sưởi
hơi ấm mình con chim khuyên
Trong lòng bàn tay
run rẩy
Giữa hai cành non
Nghe nhựa mùa xuân
Những nụ hồng đang muốn nở
Và mật vừa thơm và ong đã tới
Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân
Ngày đầu tiên của em trên biển.
(SH23/01-87)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi