Mười bảy năm xa mệ
Những ngày đông rét mướt cóng bàn tay
Cháu đưa hai con về quê thăm mệ
Mắt trẻ thơ chưa bao giờ vui đến thế
Ngắm di ảnh mệ cười sau những lư hương
Mệ đã xa cháu một quãng đường
Mười bảy năm và rồi sẽ là những năm phía trước
Những năm tháng dài cháu không bao giờ còn được
Rúc vào vai mệ ngửi thơm mát vị dầu dừa
Nhớ mùi cao sao vàng mệ vẫn bôi vào thái dương thủa xa xưa
Những mùa lạnh này mệ sẽ rất đau mà cháu thì bất lực
Chỉ mong lớn lên sau này đi làm gắng sức
Mua cho mệ biết bao cao sao vàng để sưởi ấm mệ mùa đông
Cháu khóc một mình khi nhớ rằng mệ đã từng ngóng trông
Cháu lớn lên, lập gia đình rồi sinh con đẻ cái
Thế mà mệ đã vội đi xa mãi mãi
Khi tháng năm ấy, cháu mới chỉ bắt đầu…
Cháu đã đi tìm mệ dưới giếng sâu
Trên bầu trời và trong những dòng nước chảy
Giữa ánh lửa bập bùng và mùi khói nhang quỳ lạy
Nhưng mệ đã không một lần nói với cháu sau khi mãi ra đi
Có lẽ chết là hết thật rồi, nên cháu khóc ướt bờ mi
Mệ cho cháu trái tim, tâm hồn và những gì êm ả nhất
Đến cuối đời, cháu chưa từng mua tặng mệ một mảnh áo len chật
Mà năm nay, kỵ mệ trời lại buốt tê lòng
Biết bao đêm cháu cứ ước mong
Mệ hiện ra nói rằng cháu đừng buồn, đừng trông mãi
Mệ kiếp sau sẽ đầu sinh trở lại
Làm cánh cò bay rợp trắng giấc mơ trưa
Làm cô Tấm trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa
Làm cục đường mía mật đen kho cá ngon như mật
Làm chiếc dép cao su nâng niu bàn chân đất
Cháu vẫn chạy nô đùa trong khoảng vắng dậu thưa
Nhưng chỉ có ngoài kia đáp lời cháu bằng những giọt mưa
Mệ không bao giờ hiện ra, mà sấm vẫn hồn nhiên chớp mãi
Cháu thêm một lần khóc thầm, vụng dại
Không biết rằng những năm tháng sống cùng mệ ở trên đời là
hạnh phúc vô biên
Những cây nhang, khói trầm, vàng mã đã hết thiêng…
Từ ngày, cháu biết rằng, mệ mất rồi là không còn gì thật nữa
Cái chết là hư vô nhưng nỗi đau là ngọn lửa
Cháu một đời đem lửa tìm kiếm những hư vô
(TCSH432/02-2024)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.