Dịch văn chương, nghệ thuật của điều bất khả

16:00 22/08/2025
Dịch thuật đi đến tận cùng vốn là nghệ thuật và sáng tạo. Dịch văn chương lại càng đòi hỏi sáng tạo của dịch giả bên cạnh khả năng diễn đạt nhuần nhuyễn ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích.

Vậy tổng quát thì dịch thuật là gì và quá trình dịch thuật ra sao? Dịch là quá trình truyền đạt nội dung ý nghĩa văn bản. Nida, một học giả nổi tiếng đã xem dịch thuật là một quá trình giải mã (decoding) và nhập mã lại (recoding) trải qua ba giai đoạn: phân tích, chuyển hóa, cơ cấu lại. Tác giả Naruse Yukio (成瀬由紀雄) trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã cho rằng về cơ bản dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là “giải thích” văn bản gốc (hiểu ý nghĩa) sau đó giai đoạn hai là “diễn đạt” ý nghĩa tương đương trong văn bản dịch. Việc “giải thích” thực chất là tìm hiểu ý nghĩa của văn bản và gán giá trị tương đương (等価 -とうか) để có thể truyền tải trọn vẹn thông điệp của văn bản gốc.

Do dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn là giải thích và diễn đạt, mang nặng sắc thái chủ quan nên không thể nào có một bản dịch tuyệt đối đúng. Phiên dịch chính là sự sáng tạo của từng dịch giả (翻訳は翻訳者一人一人の創造するものである). Chính vì vậy đi cùng với sự tự do chính là trách nhiệm nặng nề mà mỗi dịch giả phải đảm đương. Ngoài ra một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dịch thuật đó chính là tấm lưới lọc văn hóa. Khi tiếp cận một nền văn học của một xứ sở khác, điều đầu tiên chúng ta phải đối mặt chính là ngôn ngữ và văn hóa. Ta phải nghiên cứu đặc thù của ngôn ngữ và những đặc trưng văn hóa của đất nước đó kỹ lưỡng sau đó mới có thể hiểu được những tác phẩm văn học.

Chúng ta thử xem một trường hợp dịch của câu tục ngữ sau đây:

“Đá lăn rêu không mọc”
“A rolling stone gathers no moss.”
転がる石はコケむさない

Đây vốn là câu tục ngữ của Anh. Khi được truyền bá sang Mỹ và dịch sang tiếng Nhật, câu này được hiểu là nhấn mạnh tính năng động sáng tạo, trở thành triết lý “hòn đá lăn”, trong đó “lăn” được hiểu là nhiệt huyết, năng động, không chịu ngồi yên chấp nhận hoàn cảnh, còn “rêu” tượng trưng cho sự tiêu cực, sầu não, ám muội… Thế nhưng trong nguyên gốc tại Anh Quốc, câu này mang ý nghĩa ngược lại hoàn toàn. Vốn là nền văn hóa thiên về giá trị tĩnh tại nên “rêu” ở đây lại tượng trưng cho sự thành công. Và câu này có nghĩa là người nào thường xuyên thay đổi chỗ làm việc sẽ khó đạt được thành công.

Ví dụ này cho ta thấy điều gì? Vấn đề phiên dịch phần lớn không nằm ở trong ngôn ngữ mà trong cách hiểu in đậm dấu ấn văn hóa của chúng ta. Ngoài ra, khi phiên dịch văn chương, ta cần chú ý đến yếu tố exotic (外来の、別世界の) là ngoại lai, dị biệt mà chúng ta có thể dịch là yếu tố xa lạ (xa về địa lý và lạ về tâm lý).

Văn chương Nhật Bản nằm trong dòng chảy phương Đông có đặc thù là dồn nén cô đọng, chưa kể đặc thù của tiếng Nhật và những cảm thức thẩm mỹ của người Nhật Bản rất khác với Việt Nam. Như thế những điều mà người Nhật cảm thấy đương nhiên thì đối với người Việt Nam lại không hề là đương nhiên chẳng hạn như cảm thức aware, sabi, wabi… Vì thế khi chuyển dịch khó khăn nhiều khi không nằm ở ngôn ngữ mà nằm nơi vấn đề cảm thụ của người dịch và người đọc. Thơ haiku là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Như một bài haiku ám ảnh:

Dẫm trái khô vỡ
Làm quên
Số đếm bậc thang

Đối với người Việt Nam bài này rất khó hiểu nhưng với người từng sống ở Nhật, bài thơ ngắn này gợi ra cả một trời thu bát ngát. Việt Nam, đặc biệt trong miền Nam không hề có bốn mùa luân chuyển nên đặc trưng về mùa không rõ rệt. Nhưng Nhật Bản vào thu, lá vàng lá đỏ ngập một khung trời. Ta có thể hình dung một người đang bước lên cầu thang đá đến một đền thờ Thần đạo trên núi cao. Anh ta đang đếm bước cầu thang để xem có bao nhiêu bậc thang, để xem ngôi đền nằm vị trí cao cỡ nào. Trong khi bước, anh vô tình dẫm lên một trái cây khô rụng dưới chân và ngẩng đầu lên. Nếu đã có kinh nghiệm sống ở Nhật ta có thể hình dung ngay một rừng cây lá đỏ phủ ngập ngọn đồi, trái khô vỡ vương vãi khắp nơi. Trên đồi cao thấp thoáng ngôi đền thần đạo lặng yên trầm mặc. Bài thơ ngắn gọn giản dị mà gợi cả một trời thu bát ngát.

Nếu như ta am hiểu về những khái niệm mỹ học Nhật Bản như “Tịch liêu” (Sabi 寂) hay “Vô thường” (Mujo無常) thì việc cảm thụ bài thơ là gần như toàn bích, như người Nhật Bản. Và nếu chúng ta biết thêm một điều nữa là khi người Nhật ngắm lá đỏ là gửi gắm vào đó bao nhiêu ý nghĩa về cuộc đời, chúng ta lại hiểu thêm một tầng mức khác nữa. Tuy mùa xuân lá nào cũng xanh nhưng sang đến mùa thu có cây lá vàng có cây lá đỏ... cũng như đời người tuổi nhỏ ai cũng như nhau nhưng lớn lên mỗi người mỗi khác, “chín” theo kiểu của riêng mình, đi những con đường khác nhau. Chính vì vậy mà cuộc đời mới đẹp, cánh rừng mới đẹp vì được tô điểm nhiều màu sắc “muôn tía với ngàn hồng”.

Xét đến tận cùng khi đã đi qua ba lớp văn hóa, giải thích và diễn đạt của người dịch chúng ta sẽ không còn một tác phẩm gốc nguyên vẹn mà là một tác phẩm phái sinh được diễn giải qua lăng kính ba chiều.

Để trở thành một dịch giả, về tổng quát thì người dịch cần phải có năng lực đọc viết, am hiểu tri thức chuyên môn và có kiến thức, kỹ thuật phiên dịch như ngôn ngữ học so sánh, lịch sử phiên dịch, kỹ thuật phiên dịch…. Người dịch cần phải có đam mê, hiểu rõ lĩnh vực của mình. “Trong dịch thuật cái gì cũng dịch được có nghĩa là chẳng dịch được cái gì cả” (翻訳で「何でもできる」は「何もできない」と同義です). Dịch giả cần phải có chuyên môn sâu về lĩnh vực mình dịch hoặc về y học, kinh tế, tài chính, văn chương hay triết học.

Đối với dịch văn chương, điều quan trọng nhất ngoài sự đam mê thì chúng ta cần phải có khả năng cảm thụ sâu sắc và khả năng viết văn.

Khả năng cảm thụ liên quan đến việc thưởng thức văn bản theo nhãn quan riêng của mình. Như trường hợp nhà văn và dịch giả nổi tiếng thời Minh Trị Natsume Soseki chuyên nghiên cứu về văn học Anh. Ông đã rất khổ sở tìm hiểu liệu rằng người Nhật có thể thưởng thức được một văn bản được viết bằng tiếng Anh không? Nếu như không thể thì ý nghĩa của việc nghiên cứu văn học Anh của một người Nhật như Soseki nằm ở chỗ nào?

Thường trong trường hợp này sẽ có hai phương pháp giải quyết. Đầu tiên là cứ phó mặc cho người bản ngữ. Chẳng hạn “chuyên gia hàng đầu về tiếng Anh người bản ngữ nói là bản văn này ý tứ thâm sâu, do đó văn bản này thâm sâu ý nghĩa”… Đây là cách truyền thống của học giới Nhật Bản. Cách thứ hai là nhận định tuy mình không phải là người bản xứ nhưng cứ luyện tập liên tục, đến một lúc nào đó khả năng cảm thụ của mình cũng không khác lắm so với người bản xứ bao nhiêu. Nhưng rõ ràng là dù nỗ lực thế nào đi nữa cũng không thể nào trở thành như người bản xứ được.

Cách của Soseki cảm thụ từ lập trường của chính bản thân mình (自分なりJibunnari). Soseki đưa ra kết luận rằng nếu mình là người nước ngoài thì cứ thưởng thức bản văn theo kiểu của mình. Tất nhiên cách thưởng thức cá nhân đó có thể khác biệt chút ít với người Anh bản xứ nhưng vì chúng ta có thể thưởng thức được do đó cách thưởng thức của chúng ta cũng có ý nghĩa như cách thưởng thức của người bản xứ vậy. Đó là kết luận của Soseki.

Như vậy đầu tiên về việc cảm thụ bản văn chúng ta nên cảm thụ theo cách của mình như Soseki đã chỉ ra. Việc cảm thụ sẽ liên quan đến việc giải thích bản văn sau đó khi chuyển sang giai đoạn hai là “diễn đạt” thì chúng ta cần phải lưu ý khả năng viết của mình. Đây là một điều thú vị đương nhiên nhưng ít người để ý. Nếu chúng ta không thể diễn đạt được ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ thì chúng ta không thể nào dịch hay được.

Trong vấn đề phiên dịch tác giả Naruse chia làm bốn cấp độ: dịch những điều phổ biến, dịch mang sắc thái văn hóa, dịch nỗi niềm tác giả và cuối cùng là sức hấp dẫn của ngôn ngữ gốc. Tác giả Naruse chia sẻ thống thiết như sau: “Làm nghề dịch thuật đã nhiều năm tôi hiểu ra rằng xét đến tận cùng dịch thuật chỉ là dối trá. Bởi vì cho dù một bản dịch xuất sắc đến đâu đi nữa cũng đều khác biệt với nguyên tác. Đây không phải nói về mức độ dịch ý nghĩa hay dịch từ Anh sang Nhật mà là suy xét trên bình diện diễn đạt ngôn ngữ. Theo ý nghĩa đó, xét về bản chất dịch thuật chỉ là dối trá hư ngụy thôi. Tuy nhiên trong cảnh tuyệt vọng tối tăm như thế chúng ta, những người làm nghề dịch thuật vẫn nhìn ra ánh sáng phía cuối đường. Đó là sự sẻ chia hình ảnh, tâm tư tình cảm con người, tức là khả năng tương giao nhân loại. Chính vì vậy mà dịch thuật là việc giải phóng khỏi thế giới ngữ ngôn để tiến nhập vào thế giới của hình ảnh, có khả năng nối kết với thế giới của tâm hồn con người. Đó là điều mà tôi mong mỏi.”

Lời nhận xét xác đáng này càng đúng cho lĩnh vực dịch thuật văn chương. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tiến bước vào thế giới tâm hồn con người, bắc một nhịp cầu thông cảm tâm tư giữa hai nền văn hóa mà khởi sự tương giao?

Bài “Rạp xiếc” của Nakahara Chuya1 đã được tác giả Naruse Yukio trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã đưa ra làm ví dụ cho điều không thể dịch được bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, vượt lên trên ngôn ngữ, văn chương luôn có thể dịch được tâm tư tác giả chung một nỗi niềm thân phận con người. Đó cũng là cảnh giới cao nhất của dịch thuật mà các dịch giả phải nhắm đến.

Chúng ta cùng đọc bài thơ:

RẠP XIẾC

Biết bao thời đại trôi qua
Với cuộc chiến tranh màu xám

Biết bao thời đại trôi qua
Mùa đông gió thổi lạnh lùng

Biết bao thời đại trôi qua
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay

Từ chiếc  cao của rạp xiếc
Một chiếc đu thả xuống đung đưa
 hồ như  như không, ai biết
Chiếc đầu ngửa ra tay buông thõng

Từ trên mái  vải bạt bẩn 
Đung đưa đung đưa đung đưa
Ngọn đèn thắp sáng gần đó
Thở dài ra sợi ruy băng rẻ tiền

Quan khách chen chúc như  mòi
Khản cổ thét gào như vỏ hàu bị nghiến nát
Đung đưa đung đưa đung đưa

Ngoài rạp tăm tối đêm trường
Như kéo dài  tận
Chiếc  lượn cùng nỗi nhớ nhà xa xưa
Đung đưa đung đưa đung đưa

Như Paul Mackintosh và Maki Sugiyama nhận định về thơ Nakahara Chuya: “thơ ông lưu trữ rất nhiều những ngôn ngữ đời thường trong một sự đơn giản âm vang với nhịp điệu độc nhất của sự u uất và đa sầu đa cảm”2. Bản dịch bài thơ “Rạp xiếc”3 có thể nói chỉ là một mặt trái của bức tranh thêu, cho dù đầy đủ đường kim mũi chỉ thì cũng mất nhiều phần sắc nét của bên mặt phải. Có nghĩa là sức hấp dẫn của âm điệu bản gốc phần nào bị mất đi. Có thể gọi bản dịch gần như phải là một sáng tác mới gợi nên từ cảm hứng của bài thơ này. Tuy nhiên, vượt lên trên bức tường ngữ ngôn và văn hóa, chúng ta lại cảm thấy đồng điệu với tác giả về thân phận của một con người nghệ sĩ. Trong một túp lều nhân gian giữa đêm trường tối tăm, nhà nghệ sĩ cố gắng mua vui cho đám đông để tất cả quên đi nỗi hoài nhớ về một thiên đường quê nhà đã mất với những bất trắc của chiến tranh và lòng người. Có lẽ tác phẩm lớn nào cũng có thể “mua vui cũng được một vài trống canh” mà thôi.

Đặc trưng lớn nhất trong thơ Nakahara, theo như nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo nhận định là “Cảm giác xa xăm, cao viễn”. Đây là nguồn mạch của thơ ông. Yoshida viết “Ai trong chúng ta, hồi còn nhỏ, đều chắc chắn có lần cảm thấy một cảm giác mênh mông kỳ bí về vũ trụ không thể diễn tả bằng lời khi ngước nhìn lên trời sao thăm thẳm bao la. Nhưng riêng đối với Nakahara, ông đã mang theo những cảm giác trẻ thơ ấy đi suốt cuộc đời mình. Trong những câu mở đầu bài thơ “Rạp xiếc” nổi tiếng, “Bao thời đại” ở đây không phải nói đến những thời đại lịch sử mà qua sự lặp lại đó, ta phải hiểu nó ám chỉ một quá khứ xa xăm. Bài thơ này tiếp tục được triển khai về quang cảnh trong rạp xiếc và cuối cùng ý thơ hướng về thời gian tối tăm ở ngoài trời và một tương lai vô hạn. Cho nên quang cảnh trong rạp xiếc chỉ là một điểm trong dòng thời gian vô hạn đó thôi”4.

Bản dịch cũng giúp chúng ta phần nào cảm thụ thế giới tinh thần của tác giả và đồng cảm với nỗi niềm nghệ sĩ. Và vượt lên giới hạn ngôn ngữ văn hóa Nhật Bản, chúng ta lại nhìn thấy sự tương đồng với bài thơ “Hamlet” của nhà thơ Nga Boris Pasternak:

HAMLET

Tiếng ồn ào vừa tắt. Tôi bước ra sàn diễn
Tựa lưng vào cánh 
Tôi lắng nghe nơi tiếng vọng từ xa
Những  rồi xảy ra thời mình sống

Trong bóng đêm mập mờ nhập nhoạng
Hàng nghìn ống nhòm đang điều chỉnh chĩa vào tôi
Nếu  thể, Cha ơi
Chiếc chén đây xin hãy cất dời

Tôi yêu ý định ngang trái của Người
Chính tôi đã chấp thuận nhập vai
Nhưng giờ chuyển sang tuồng tích khác
Cho tôi nghỉ diễn lần này

Song kịch bản đã được duyệt rồi
 đoạn kết con đường không tránh khỏi
Tôi một mình,  pharixêu múa rối
Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi5

Như thế chúng ta có thể nói thực chất việc phiên dịch các tác phẩm văn chương chính là một cuộc tương giao vượt trên ngữ ngôn để nối kết tâm hồn nhân loại, để nhận chân về bản chất con người của chúng ta. Đó là điều không có máy móc nào có thể thay thế. Cho dù phương tiện kỹ thuật hiện đại thay đổi thế giới đến đâu đi nữa thì cái cảm xúc rưng rưng khi đọc được một bài thơ hay vẫn rất riêng con người mà không có cỗ máy nào cảm nhận được.

Để kết luận bài viết chúng tôi xin trích lời của chính tác giả Naruse:

“Dịch thuật là công việc của con người. Bởi vì dịch thuật kết nối tâm hồn con người lại với nhau. Máy móc chỉ có thể nối kết từ ngữ với từ ngữ, không thể nối kết tâm hồn và tâm hồn. Chỉ riêng có con người mới có thể “dĩ tâm truyền tâm”.

“翻訳は人間の仕事である。それは心と心をつなぐ営みだ からである。機械には言葉と言葉はつなげても心と心を つなぐことはできない。心と心をつなぐことができるのはただ人間だけだ”

Chừng nào con người trên trái đất còn sẻ chia chung một bầu trời và mặt đất, còn tranh đấu cho những điều đẹp đẽ quý giá vượt lên trên sự sống còn, văn chương và việc phiên dịch văn chương vẫn luôn tồn tại như liều thuốc chữa lành cần thiết an ủi mọi nỗi lầm than.

H.L
(TCSH437/07-2025)

-----------------
1 Nakahara Chuya (中原中也) sinh ngày 29/4/1907 tại tỉnh Yamaguchi, trung tâm của đạo Cơ đốc miền Tây Nhật Bản từ thế kỷ 16. Năm 13 tuổi đã có những bài tanka được chọn đăng trên các tạp chí. Năm 1924, ông được giới thiệu cho đọc những tác phẩm của Baudelaire, Rimbaud, Verlaine và bắt đầu đam mê văn học Pháp. Năm 1931, ông nhập học khoa tiếng Pháp trường ngoại ngữ Tokyo, chuẩn bị cho công cuộc dịch thơ Rimbaud sau này của ông. Hai tuyển tập thơ Rimbaud do ông dịch đã được in vào các năm 1933 và năm 1937. Khi qua đời ở tuổi 30 năm 1937, nhà thơ Nakahara Chuya chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta山羊の歌), “Bài ca ngày tháng cũ” (在りし日の歌Arishi hi no uta) nhưng vị trí của ông trong nền văn học Nhật Bản là không thể thay thế.
2 Paul Mackintosh và Maki Sugiyama, The poems of Nakahara Chuya, Nxb. Gracewing, 1993, phần lời dẫn nhập.
3 Bản dịch được chúng tôi dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, trích trong thi tập Nakahara Chuya, Nxb. Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
4 Dịch từ phần “Giải thuyết” của nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo in cuối thi tập Nakahara Chuya, Nxb Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
5 Bản dịch của Thanh Thảo và Phạm Vĩnh Cư, trích trong tuyển tập thơ Boris Pasternak, Sở Văn hóa và Thông tin Phú Khánh, 1987.

Tài liệu tham khảo:

1. Naruse Yukio (成瀬由紀雄), Phiên dịch nhập môn 翻訳の教科書, sách ebook trên mạng Internet.
2. HirakoYoshio (平子義雄), Nguyên lý dịch thuật (翻訳の原理)、Nxb. Taishukan (大修館書店), xuất bản năm 1999.
3. Hoàng Long, Bông hồng cho ngày tháng không tên (tiểu luận và dịch thuật về văn hóa văn học Nhật Bản), Nxb. Phụ Nữ, 2018.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)