Dịch văn chương, nghệ thuật của điều bất khả

16:00 22/08/2025
Dịch thuật đi đến tận cùng vốn là nghệ thuật và sáng tạo. Dịch văn chương lại càng đòi hỏi sáng tạo của dịch giả bên cạnh khả năng diễn đạt nhuần nhuyễn ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích.

Vậy tổng quát thì dịch thuật là gì và quá trình dịch thuật ra sao? Dịch là quá trình truyền đạt nội dung ý nghĩa văn bản. Nida, một học giả nổi tiếng đã xem dịch thuật là một quá trình giải mã (decoding) và nhập mã lại (recoding) trải qua ba giai đoạn: phân tích, chuyển hóa, cơ cấu lại. Tác giả Naruse Yukio (成瀬由紀雄) trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã cho rằng về cơ bản dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là “giải thích” văn bản gốc (hiểu ý nghĩa) sau đó giai đoạn hai là “diễn đạt” ý nghĩa tương đương trong văn bản dịch. Việc “giải thích” thực chất là tìm hiểu ý nghĩa của văn bản và gán giá trị tương đương (等価 -とうか) để có thể truyền tải trọn vẹn thông điệp của văn bản gốc.

Do dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn là giải thích và diễn đạt, mang nặng sắc thái chủ quan nên không thể nào có một bản dịch tuyệt đối đúng. Phiên dịch chính là sự sáng tạo của từng dịch giả (翻訳は翻訳者一人一人の創造するものである). Chính vì vậy đi cùng với sự tự do chính là trách nhiệm nặng nề mà mỗi dịch giả phải đảm đương. Ngoài ra một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dịch thuật đó chính là tấm lưới lọc văn hóa. Khi tiếp cận một nền văn học của một xứ sở khác, điều đầu tiên chúng ta phải đối mặt chính là ngôn ngữ và văn hóa. Ta phải nghiên cứu đặc thù của ngôn ngữ và những đặc trưng văn hóa của đất nước đó kỹ lưỡng sau đó mới có thể hiểu được những tác phẩm văn học.

Chúng ta thử xem một trường hợp dịch của câu tục ngữ sau đây:

“Đá lăn rêu không mọc”
“A rolling stone gathers no moss.”
転がる石はコケむさない

Đây vốn là câu tục ngữ của Anh. Khi được truyền bá sang Mỹ và dịch sang tiếng Nhật, câu này được hiểu là nhấn mạnh tính năng động sáng tạo, trở thành triết lý “hòn đá lăn”, trong đó “lăn” được hiểu là nhiệt huyết, năng động, không chịu ngồi yên chấp nhận hoàn cảnh, còn “rêu” tượng trưng cho sự tiêu cực, sầu não, ám muội… Thế nhưng trong nguyên gốc tại Anh Quốc, câu này mang ý nghĩa ngược lại hoàn toàn. Vốn là nền văn hóa thiên về giá trị tĩnh tại nên “rêu” ở đây lại tượng trưng cho sự thành công. Và câu này có nghĩa là người nào thường xuyên thay đổi chỗ làm việc sẽ khó đạt được thành công.

Ví dụ này cho ta thấy điều gì? Vấn đề phiên dịch phần lớn không nằm ở trong ngôn ngữ mà trong cách hiểu in đậm dấu ấn văn hóa của chúng ta. Ngoài ra, khi phiên dịch văn chương, ta cần chú ý đến yếu tố exotic (外来の、別世界の) là ngoại lai, dị biệt mà chúng ta có thể dịch là yếu tố xa lạ (xa về địa lý và lạ về tâm lý).

Văn chương Nhật Bản nằm trong dòng chảy phương Đông có đặc thù là dồn nén cô đọng, chưa kể đặc thù của tiếng Nhật và những cảm thức thẩm mỹ của người Nhật Bản rất khác với Việt Nam. Như thế những điều mà người Nhật cảm thấy đương nhiên thì đối với người Việt Nam lại không hề là đương nhiên chẳng hạn như cảm thức aware, sabi, wabi… Vì thế khi chuyển dịch khó khăn nhiều khi không nằm ở ngôn ngữ mà nằm nơi vấn đề cảm thụ của người dịch và người đọc. Thơ haiku là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Như một bài haiku ám ảnh:

Dẫm trái khô vỡ
Làm quên
Số đếm bậc thang

Đối với người Việt Nam bài này rất khó hiểu nhưng với người từng sống ở Nhật, bài thơ ngắn này gợi ra cả một trời thu bát ngát. Việt Nam, đặc biệt trong miền Nam không hề có bốn mùa luân chuyển nên đặc trưng về mùa không rõ rệt. Nhưng Nhật Bản vào thu, lá vàng lá đỏ ngập một khung trời. Ta có thể hình dung một người đang bước lên cầu thang đá đến một đền thờ Thần đạo trên núi cao. Anh ta đang đếm bước cầu thang để xem có bao nhiêu bậc thang, để xem ngôi đền nằm vị trí cao cỡ nào. Trong khi bước, anh vô tình dẫm lên một trái cây khô rụng dưới chân và ngẩng đầu lên. Nếu đã có kinh nghiệm sống ở Nhật ta có thể hình dung ngay một rừng cây lá đỏ phủ ngập ngọn đồi, trái khô vỡ vương vãi khắp nơi. Trên đồi cao thấp thoáng ngôi đền thần đạo lặng yên trầm mặc. Bài thơ ngắn gọn giản dị mà gợi cả một trời thu bát ngát.

Nếu như ta am hiểu về những khái niệm mỹ học Nhật Bản như “Tịch liêu” (Sabi 寂) hay “Vô thường” (Mujo無常) thì việc cảm thụ bài thơ là gần như toàn bích, như người Nhật Bản. Và nếu chúng ta biết thêm một điều nữa là khi người Nhật ngắm lá đỏ là gửi gắm vào đó bao nhiêu ý nghĩa về cuộc đời, chúng ta lại hiểu thêm một tầng mức khác nữa. Tuy mùa xuân lá nào cũng xanh nhưng sang đến mùa thu có cây lá vàng có cây lá đỏ... cũng như đời người tuổi nhỏ ai cũng như nhau nhưng lớn lên mỗi người mỗi khác, “chín” theo kiểu của riêng mình, đi những con đường khác nhau. Chính vì vậy mà cuộc đời mới đẹp, cánh rừng mới đẹp vì được tô điểm nhiều màu sắc “muôn tía với ngàn hồng”.

Xét đến tận cùng khi đã đi qua ba lớp văn hóa, giải thích và diễn đạt của người dịch chúng ta sẽ không còn một tác phẩm gốc nguyên vẹn mà là một tác phẩm phái sinh được diễn giải qua lăng kính ba chiều.

Để trở thành một dịch giả, về tổng quát thì người dịch cần phải có năng lực đọc viết, am hiểu tri thức chuyên môn và có kiến thức, kỹ thuật phiên dịch như ngôn ngữ học so sánh, lịch sử phiên dịch, kỹ thuật phiên dịch…. Người dịch cần phải có đam mê, hiểu rõ lĩnh vực của mình. “Trong dịch thuật cái gì cũng dịch được có nghĩa là chẳng dịch được cái gì cả” (翻訳で「何でもできる」は「何もできない」と同義です). Dịch giả cần phải có chuyên môn sâu về lĩnh vực mình dịch hoặc về y học, kinh tế, tài chính, văn chương hay triết học.

Đối với dịch văn chương, điều quan trọng nhất ngoài sự đam mê thì chúng ta cần phải có khả năng cảm thụ sâu sắc và khả năng viết văn.

Khả năng cảm thụ liên quan đến việc thưởng thức văn bản theo nhãn quan riêng của mình. Như trường hợp nhà văn và dịch giả nổi tiếng thời Minh Trị Natsume Soseki chuyên nghiên cứu về văn học Anh. Ông đã rất khổ sở tìm hiểu liệu rằng người Nhật có thể thưởng thức được một văn bản được viết bằng tiếng Anh không? Nếu như không thể thì ý nghĩa của việc nghiên cứu văn học Anh của một người Nhật như Soseki nằm ở chỗ nào?

Thường trong trường hợp này sẽ có hai phương pháp giải quyết. Đầu tiên là cứ phó mặc cho người bản ngữ. Chẳng hạn “chuyên gia hàng đầu về tiếng Anh người bản ngữ nói là bản văn này ý tứ thâm sâu, do đó văn bản này thâm sâu ý nghĩa”… Đây là cách truyền thống của học giới Nhật Bản. Cách thứ hai là nhận định tuy mình không phải là người bản xứ nhưng cứ luyện tập liên tục, đến một lúc nào đó khả năng cảm thụ của mình cũng không khác lắm so với người bản xứ bao nhiêu. Nhưng rõ ràng là dù nỗ lực thế nào đi nữa cũng không thể nào trở thành như người bản xứ được.

Cách của Soseki cảm thụ từ lập trường của chính bản thân mình (自分なりJibunnari). Soseki đưa ra kết luận rằng nếu mình là người nước ngoài thì cứ thưởng thức bản văn theo kiểu của mình. Tất nhiên cách thưởng thức cá nhân đó có thể khác biệt chút ít với người Anh bản xứ nhưng vì chúng ta có thể thưởng thức được do đó cách thưởng thức của chúng ta cũng có ý nghĩa như cách thưởng thức của người bản xứ vậy. Đó là kết luận của Soseki.

Như vậy đầu tiên về việc cảm thụ bản văn chúng ta nên cảm thụ theo cách của mình như Soseki đã chỉ ra. Việc cảm thụ sẽ liên quan đến việc giải thích bản văn sau đó khi chuyển sang giai đoạn hai là “diễn đạt” thì chúng ta cần phải lưu ý khả năng viết của mình. Đây là một điều thú vị đương nhiên nhưng ít người để ý. Nếu chúng ta không thể diễn đạt được ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ thì chúng ta không thể nào dịch hay được.

Trong vấn đề phiên dịch tác giả Naruse chia làm bốn cấp độ: dịch những điều phổ biến, dịch mang sắc thái văn hóa, dịch nỗi niềm tác giả và cuối cùng là sức hấp dẫn của ngôn ngữ gốc. Tác giả Naruse chia sẻ thống thiết như sau: “Làm nghề dịch thuật đã nhiều năm tôi hiểu ra rằng xét đến tận cùng dịch thuật chỉ là dối trá. Bởi vì cho dù một bản dịch xuất sắc đến đâu đi nữa cũng đều khác biệt với nguyên tác. Đây không phải nói về mức độ dịch ý nghĩa hay dịch từ Anh sang Nhật mà là suy xét trên bình diện diễn đạt ngôn ngữ. Theo ý nghĩa đó, xét về bản chất dịch thuật chỉ là dối trá hư ngụy thôi. Tuy nhiên trong cảnh tuyệt vọng tối tăm như thế chúng ta, những người làm nghề dịch thuật vẫn nhìn ra ánh sáng phía cuối đường. Đó là sự sẻ chia hình ảnh, tâm tư tình cảm con người, tức là khả năng tương giao nhân loại. Chính vì vậy mà dịch thuật là việc giải phóng khỏi thế giới ngữ ngôn để tiến nhập vào thế giới của hình ảnh, có khả năng nối kết với thế giới của tâm hồn con người. Đó là điều mà tôi mong mỏi.”

Lời nhận xét xác đáng này càng đúng cho lĩnh vực dịch thuật văn chương. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tiến bước vào thế giới tâm hồn con người, bắc một nhịp cầu thông cảm tâm tư giữa hai nền văn hóa mà khởi sự tương giao?

Bài “Rạp xiếc” của Nakahara Chuya1 đã được tác giả Naruse Yukio trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã đưa ra làm ví dụ cho điều không thể dịch được bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, vượt lên trên ngôn ngữ, văn chương luôn có thể dịch được tâm tư tác giả chung một nỗi niềm thân phận con người. Đó cũng là cảnh giới cao nhất của dịch thuật mà các dịch giả phải nhắm đến.

Chúng ta cùng đọc bài thơ:

RẠP XIẾC

Biết bao thời đại trôi qua
Với cuộc chiến tranh màu xám

Biết bao thời đại trôi qua
Mùa đông gió thổi lạnh lùng

Biết bao thời đại trôi qua
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay

Từ chiếc  cao của rạp xiếc
Một chiếc đu thả xuống đung đưa
 hồ như  như không, ai biết
Chiếc đầu ngửa ra tay buông thõng

Từ trên mái  vải bạt bẩn 
Đung đưa đung đưa đung đưa
Ngọn đèn thắp sáng gần đó
Thở dài ra sợi ruy băng rẻ tiền

Quan khách chen chúc như  mòi
Khản cổ thét gào như vỏ hàu bị nghiến nát
Đung đưa đung đưa đung đưa

Ngoài rạp tăm tối đêm trường
Như kéo dài  tận
Chiếc  lượn cùng nỗi nhớ nhà xa xưa
Đung đưa đung đưa đung đưa

Như Paul Mackintosh và Maki Sugiyama nhận định về thơ Nakahara Chuya: “thơ ông lưu trữ rất nhiều những ngôn ngữ đời thường trong một sự đơn giản âm vang với nhịp điệu độc nhất của sự u uất và đa sầu đa cảm”2. Bản dịch bài thơ “Rạp xiếc”3 có thể nói chỉ là một mặt trái của bức tranh thêu, cho dù đầy đủ đường kim mũi chỉ thì cũng mất nhiều phần sắc nét của bên mặt phải. Có nghĩa là sức hấp dẫn của âm điệu bản gốc phần nào bị mất đi. Có thể gọi bản dịch gần như phải là một sáng tác mới gợi nên từ cảm hứng của bài thơ này. Tuy nhiên, vượt lên trên bức tường ngữ ngôn và văn hóa, chúng ta lại cảm thấy đồng điệu với tác giả về thân phận của một con người nghệ sĩ. Trong một túp lều nhân gian giữa đêm trường tối tăm, nhà nghệ sĩ cố gắng mua vui cho đám đông để tất cả quên đi nỗi hoài nhớ về một thiên đường quê nhà đã mất với những bất trắc của chiến tranh và lòng người. Có lẽ tác phẩm lớn nào cũng có thể “mua vui cũng được một vài trống canh” mà thôi.

Đặc trưng lớn nhất trong thơ Nakahara, theo như nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo nhận định là “Cảm giác xa xăm, cao viễn”. Đây là nguồn mạch của thơ ông. Yoshida viết “Ai trong chúng ta, hồi còn nhỏ, đều chắc chắn có lần cảm thấy một cảm giác mênh mông kỳ bí về vũ trụ không thể diễn tả bằng lời khi ngước nhìn lên trời sao thăm thẳm bao la. Nhưng riêng đối với Nakahara, ông đã mang theo những cảm giác trẻ thơ ấy đi suốt cuộc đời mình. Trong những câu mở đầu bài thơ “Rạp xiếc” nổi tiếng, “Bao thời đại” ở đây không phải nói đến những thời đại lịch sử mà qua sự lặp lại đó, ta phải hiểu nó ám chỉ một quá khứ xa xăm. Bài thơ này tiếp tục được triển khai về quang cảnh trong rạp xiếc và cuối cùng ý thơ hướng về thời gian tối tăm ở ngoài trời và một tương lai vô hạn. Cho nên quang cảnh trong rạp xiếc chỉ là một điểm trong dòng thời gian vô hạn đó thôi”4.

Bản dịch cũng giúp chúng ta phần nào cảm thụ thế giới tinh thần của tác giả và đồng cảm với nỗi niềm nghệ sĩ. Và vượt lên giới hạn ngôn ngữ văn hóa Nhật Bản, chúng ta lại nhìn thấy sự tương đồng với bài thơ “Hamlet” của nhà thơ Nga Boris Pasternak:

HAMLET

Tiếng ồn ào vừa tắt. Tôi bước ra sàn diễn
Tựa lưng vào cánh 
Tôi lắng nghe nơi tiếng vọng từ xa
Những  rồi xảy ra thời mình sống

Trong bóng đêm mập mờ nhập nhoạng
Hàng nghìn ống nhòm đang điều chỉnh chĩa vào tôi
Nếu  thể, Cha ơi
Chiếc chén đây xin hãy cất dời

Tôi yêu ý định ngang trái của Người
Chính tôi đã chấp thuận nhập vai
Nhưng giờ chuyển sang tuồng tích khác
Cho tôi nghỉ diễn lần này

Song kịch bản đã được duyệt rồi
 đoạn kết con đường không tránh khỏi
Tôi một mình,  pharixêu múa rối
Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi5

Như thế chúng ta có thể nói thực chất việc phiên dịch các tác phẩm văn chương chính là một cuộc tương giao vượt trên ngữ ngôn để nối kết tâm hồn nhân loại, để nhận chân về bản chất con người của chúng ta. Đó là điều không có máy móc nào có thể thay thế. Cho dù phương tiện kỹ thuật hiện đại thay đổi thế giới đến đâu đi nữa thì cái cảm xúc rưng rưng khi đọc được một bài thơ hay vẫn rất riêng con người mà không có cỗ máy nào cảm nhận được.

Để kết luận bài viết chúng tôi xin trích lời của chính tác giả Naruse:

“Dịch thuật là công việc của con người. Bởi vì dịch thuật kết nối tâm hồn con người lại với nhau. Máy móc chỉ có thể nối kết từ ngữ với từ ngữ, không thể nối kết tâm hồn và tâm hồn. Chỉ riêng có con người mới có thể “dĩ tâm truyền tâm”.

“翻訳は人間の仕事である。それは心と心をつなぐ営みだ からである。機械には言葉と言葉はつなげても心と心を つなぐことはできない。心と心をつなぐことができるのはただ人間だけだ”

Chừng nào con người trên trái đất còn sẻ chia chung một bầu trời và mặt đất, còn tranh đấu cho những điều đẹp đẽ quý giá vượt lên trên sự sống còn, văn chương và việc phiên dịch văn chương vẫn luôn tồn tại như liều thuốc chữa lành cần thiết an ủi mọi nỗi lầm than.

H.L
(TCSH437/07-2025)

-----------------
1 Nakahara Chuya (中原中也) sinh ngày 29/4/1907 tại tỉnh Yamaguchi, trung tâm của đạo Cơ đốc miền Tây Nhật Bản từ thế kỷ 16. Năm 13 tuổi đã có những bài tanka được chọn đăng trên các tạp chí. Năm 1924, ông được giới thiệu cho đọc những tác phẩm của Baudelaire, Rimbaud, Verlaine và bắt đầu đam mê văn học Pháp. Năm 1931, ông nhập học khoa tiếng Pháp trường ngoại ngữ Tokyo, chuẩn bị cho công cuộc dịch thơ Rimbaud sau này của ông. Hai tuyển tập thơ Rimbaud do ông dịch đã được in vào các năm 1933 và năm 1937. Khi qua đời ở tuổi 30 năm 1937, nhà thơ Nakahara Chuya chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta山羊の歌), “Bài ca ngày tháng cũ” (在りし日の歌Arishi hi no uta) nhưng vị trí của ông trong nền văn học Nhật Bản là không thể thay thế.
2 Paul Mackintosh và Maki Sugiyama, The poems of Nakahara Chuya, Nxb. Gracewing, 1993, phần lời dẫn nhập.
3 Bản dịch được chúng tôi dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, trích trong thi tập Nakahara Chuya, Nxb. Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
4 Dịch từ phần “Giải thuyết” của nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo in cuối thi tập Nakahara Chuya, Nxb Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
5 Bản dịch của Thanh Thảo và Phạm Vĩnh Cư, trích trong tuyển tập thơ Boris Pasternak, Sở Văn hóa và Thông tin Phú Khánh, 1987.

Tài liệu tham khảo:

1. Naruse Yukio (成瀬由紀雄), Phiên dịch nhập môn 翻訳の教科書, sách ebook trên mạng Internet.
2. HirakoYoshio (平子義雄), Nguyên lý dịch thuật (翻訳の原理)、Nxb. Taishukan (大修館書店), xuất bản năm 1999.
3. Hoàng Long, Bông hồng cho ngày tháng không tên (tiểu luận và dịch thuật về văn hóa văn học Nhật Bản), Nxb. Phụ Nữ, 2018.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • "Thượng đế dằn vặt tôi suốt đời" (Đôxtôiepxki)

  • Mười năm thơ thập thững vào kinh tế thị trường cũng là mười năm những nhà thơ Việt phải cõng Thơ leo núi.

  • Từ lâu, người ta đã nói đến cuộc tổng khủng hoảng của văn học trên quy mô toàn thế giới.

  • Bàn luận về những vấn đề văn học mới, phạm trù văn học mới, tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị và sự đóng góp của văn học hợp pháp, văn học cách mạng trong nửa đầu thế kỉ. Với cái nhìn bao quát và biện chứng theo dòng thời gian, chúng ta nhận rõ công lao góp phần mở đầu hiện đại hoá và phát triển văn học theo qui luật tiến hoá của lịch sử Việt của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

  • Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Sóng đôi (bài tỉ, sắp hàng ngang nhau) là phép tu từ cổ xưa trong đó các bộ phận giống nhau của câu được lặp lại trong câu hay đoạn văn, thơ, làm cho cấu trúc lời văn được chỉnh tề, rõ rệt, nhất quán, đồng thời do sự lặp lại mà tạo thành nhịp điệu mạnh mẽ, như thác nước từ trên cao đổ xuống, hình thành khí thế của lời văn lời thơ.

  • LTS: Trên Sông Hương số tháng 10 - 2007, chúng tôi đã giới thiệu về công trình “La littérature en péril” (Nền văn chương đang lâm nguy) củaTzvetan Todorov - nhà triết học, mỹ học và nhà lý luận văn học nổi tiếng của Pháp.

  • Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.

  • (Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).

  • 1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.

  • Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…

  • "Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.

  • Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.

  • PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…

  • Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của  Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)

  • Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN. 

  • Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:                Lọt tai nghe suốt năm cung                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ?