Vậy tổng quát thì dịch thuật là gì và quá trình dịch thuật ra sao? Dịch là quá trình truyền đạt nội dung ý nghĩa văn bản. Nida, một học giả nổi tiếng đã xem dịch thuật là một quá trình giải mã (decoding) và nhập mã lại (recoding) trải qua ba giai đoạn: phân tích, chuyển hóa, cơ cấu lại. Tác giả Naruse Yukio (成瀬由紀雄) trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã cho rằng về cơ bản dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là “giải thích” văn bản gốc (hiểu ý nghĩa) sau đó giai đoạn hai là “diễn đạt” ý nghĩa tương đương trong văn bản dịch. Việc “giải thích” thực chất là tìm hiểu ý nghĩa của văn bản và gán giá trị tương đương (等価 -とうか) để có thể truyền tải trọn vẹn thông điệp của văn bản gốc.
Do dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn là giải thích và diễn đạt, mang nặng sắc thái chủ quan nên không thể nào có một bản dịch tuyệt đối đúng. Phiên dịch chính là sự sáng tạo của từng dịch giả (翻訳は翻訳者一人一人の創造するものである). Chính vì vậy đi cùng với sự tự do chính là trách nhiệm nặng nề mà mỗi dịch giả phải đảm đương. Ngoài ra một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dịch thuật đó chính là tấm lưới lọc văn hóa. Khi tiếp cận một nền văn học của một xứ sở khác, điều đầu tiên chúng ta phải đối mặt chính là ngôn ngữ và văn hóa. Ta phải nghiên cứu đặc thù của ngôn ngữ và những đặc trưng văn hóa của đất nước đó kỹ lưỡng sau đó mới có thể hiểu được những tác phẩm văn học.
Chúng ta thử xem một trường hợp dịch của câu tục ngữ sau đây:
“Đá lăn rêu không mọc”
“A rolling stone gathers no moss.”
転がる石はコケむさない
Đây vốn là câu tục ngữ của Anh. Khi được truyền bá sang Mỹ và dịch sang tiếng Nhật, câu này được hiểu là nhấn mạnh tính năng động sáng tạo, trở thành triết lý “hòn đá lăn”, trong đó “lăn” được hiểu là nhiệt huyết, năng động, không chịu ngồi yên chấp nhận hoàn cảnh, còn “rêu” tượng trưng cho sự tiêu cực, sầu não, ám muội… Thế nhưng trong nguyên gốc tại Anh Quốc, câu này mang ý nghĩa ngược lại hoàn toàn. Vốn là nền văn hóa thiên về giá trị tĩnh tại nên “rêu” ở đây lại tượng trưng cho sự thành công. Và câu này có nghĩa là người nào thường xuyên thay đổi chỗ làm việc sẽ khó đạt được thành công.
Ví dụ này cho ta thấy điều gì? Vấn đề phiên dịch phần lớn không nằm ở trong ngôn ngữ mà trong cách hiểu in đậm dấu ấn văn hóa của chúng ta. Ngoài ra, khi phiên dịch văn chương, ta cần chú ý đến yếu tố exotic (外来の、別世界の) là ngoại lai, dị biệt mà chúng ta có thể dịch là yếu tố xa lạ (xa về địa lý và lạ về tâm lý).
Văn chương Nhật Bản nằm trong dòng chảy phương Đông có đặc thù là dồn nén cô đọng, chưa kể đặc thù của tiếng Nhật và những cảm thức thẩm mỹ của người Nhật Bản rất khác với Việt Nam. Như thế những điều mà người Nhật cảm thấy đương nhiên thì đối với người Việt Nam lại không hề là đương nhiên chẳng hạn như cảm thức aware, sabi, wabi… Vì thế khi chuyển dịch khó khăn nhiều khi không nằm ở ngôn ngữ mà nằm nơi vấn đề cảm thụ của người dịch và người đọc. Thơ haiku là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Như một bài haiku ám ảnh:
Dẫm trái khô vỡ
Làm quên
Số đếm bậc thang
Đối với người Việt Nam bài này rất khó hiểu nhưng với người từng sống ở Nhật, bài thơ ngắn này gợi ra cả một trời thu bát ngát. Việt Nam, đặc biệt trong miền Nam không hề có bốn mùa luân chuyển nên đặc trưng về mùa không rõ rệt. Nhưng Nhật Bản vào thu, lá vàng lá đỏ ngập một khung trời. Ta có thể hình dung một người đang bước lên cầu thang đá đến một đền thờ Thần đạo trên núi cao. Anh ta đang đếm bước cầu thang để xem có bao nhiêu bậc thang, để xem ngôi đền nằm vị trí cao cỡ nào. Trong khi bước, anh vô tình dẫm lên một trái cây khô rụng dưới chân và ngẩng đầu lên. Nếu đã có kinh nghiệm sống ở Nhật ta có thể hình dung ngay một rừng cây lá đỏ phủ ngập ngọn đồi, trái khô vỡ vương vãi khắp nơi. Trên đồi cao thấp thoáng ngôi đền thần đạo lặng yên trầm mặc. Bài thơ ngắn gọn giản dị mà gợi cả một trời thu bát ngát.
Nếu như ta am hiểu về những khái niệm mỹ học Nhật Bản như “Tịch liêu” (Sabi 寂) hay “Vô thường” (Mujo無常) thì việc cảm thụ bài thơ là gần như toàn bích, như người Nhật Bản. Và nếu chúng ta biết thêm một điều nữa là khi người Nhật ngắm lá đỏ là gửi gắm vào đó bao nhiêu ý nghĩa về cuộc đời, chúng ta lại hiểu thêm một tầng mức khác nữa. Tuy mùa xuân lá nào cũng xanh nhưng sang đến mùa thu có cây lá vàng có cây lá đỏ... cũng như đời người tuổi nhỏ ai cũng như nhau nhưng lớn lên mỗi người mỗi khác, “chín” theo kiểu của riêng mình, đi những con đường khác nhau. Chính vì vậy mà cuộc đời mới đẹp, cánh rừng mới đẹp vì được tô điểm nhiều màu sắc “muôn tía với ngàn hồng”.
Xét đến tận cùng khi đã đi qua ba lớp văn hóa, giải thích và diễn đạt của người dịch chúng ta sẽ không còn một tác phẩm gốc nguyên vẹn mà là một tác phẩm phái sinh được diễn giải qua lăng kính ba chiều.
Để trở thành một dịch giả, về tổng quát thì người dịch cần phải có năng lực đọc viết, am hiểu tri thức chuyên môn và có kiến thức, kỹ thuật phiên dịch như ngôn ngữ học so sánh, lịch sử phiên dịch, kỹ thuật phiên dịch…. Người dịch cần phải có đam mê, hiểu rõ lĩnh vực của mình. “Trong dịch thuật cái gì cũng dịch được có nghĩa là chẳng dịch được cái gì cả” (翻訳で「何でもできる」は「何もできない」と同義です). Dịch giả cần phải có chuyên môn sâu về lĩnh vực mình dịch hoặc về y học, kinh tế, tài chính, văn chương hay triết học.
Đối với dịch văn chương, điều quan trọng nhất ngoài sự đam mê thì chúng ta cần phải có khả năng cảm thụ sâu sắc và khả năng viết văn.
Khả năng cảm thụ liên quan đến việc thưởng thức văn bản theo nhãn quan riêng của mình. Như trường hợp nhà văn và dịch giả nổi tiếng thời Minh Trị Natsume Soseki chuyên nghiên cứu về văn học Anh. Ông đã rất khổ sở tìm hiểu liệu rằng người Nhật có thể thưởng thức được một văn bản được viết bằng tiếng Anh không? Nếu như không thể thì ý nghĩa của việc nghiên cứu văn học Anh của một người Nhật như Soseki nằm ở chỗ nào?
Thường trong trường hợp này sẽ có hai phương pháp giải quyết. Đầu tiên là cứ phó mặc cho người bản ngữ. Chẳng hạn “chuyên gia hàng đầu về tiếng Anh người bản ngữ nói là bản văn này ý tứ thâm sâu, do đó văn bản này thâm sâu ý nghĩa”… Đây là cách truyền thống của học giới Nhật Bản. Cách thứ hai là nhận định tuy mình không phải là người bản xứ nhưng cứ luyện tập liên tục, đến một lúc nào đó khả năng cảm thụ của mình cũng không khác lắm so với người bản xứ bao nhiêu. Nhưng rõ ràng là dù nỗ lực thế nào đi nữa cũng không thể nào trở thành như người bản xứ được.
Cách của Soseki cảm thụ từ lập trường của chính bản thân mình (自分なりJibunnari). Soseki đưa ra kết luận rằng nếu mình là người nước ngoài thì cứ thưởng thức bản văn theo kiểu của mình. Tất nhiên cách thưởng thức cá nhân đó có thể khác biệt chút ít với người Anh bản xứ nhưng vì chúng ta có thể thưởng thức được do đó cách thưởng thức của chúng ta cũng có ý nghĩa như cách thưởng thức của người bản xứ vậy. Đó là kết luận của Soseki.
Như vậy đầu tiên về việc cảm thụ bản văn chúng ta nên cảm thụ theo cách của mình như Soseki đã chỉ ra. Việc cảm thụ sẽ liên quan đến việc giải thích bản văn sau đó khi chuyển sang giai đoạn hai là “diễn đạt” thì chúng ta cần phải lưu ý khả năng viết của mình. Đây là một điều thú vị đương nhiên nhưng ít người để ý. Nếu chúng ta không thể diễn đạt được ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ thì chúng ta không thể nào dịch hay được.
Trong vấn đề phiên dịch tác giả Naruse chia làm bốn cấp độ: dịch những điều phổ biến, dịch mang sắc thái văn hóa, dịch nỗi niềm tác giả và cuối cùng là sức hấp dẫn của ngôn ngữ gốc. Tác giả Naruse chia sẻ thống thiết như sau: “Làm nghề dịch thuật đã nhiều năm tôi hiểu ra rằng xét đến tận cùng dịch thuật chỉ là dối trá. Bởi vì cho dù một bản dịch xuất sắc đến đâu đi nữa cũng đều khác biệt với nguyên tác. Đây không phải nói về mức độ dịch ý nghĩa hay dịch từ Anh sang Nhật mà là suy xét trên bình diện diễn đạt ngôn ngữ. Theo ý nghĩa đó, xét về bản chất dịch thuật chỉ là dối trá hư ngụy thôi. Tuy nhiên trong cảnh tuyệt vọng tối tăm như thế chúng ta, những người làm nghề dịch thuật vẫn nhìn ra ánh sáng phía cuối đường. Đó là sự sẻ chia hình ảnh, tâm tư tình cảm con người, tức là khả năng tương giao nhân loại. Chính vì vậy mà dịch thuật là việc giải phóng khỏi thế giới ngữ ngôn để tiến nhập vào thế giới của hình ảnh, có khả năng nối kết với thế giới của tâm hồn con người. Đó là điều mà tôi mong mỏi.”
Lời nhận xét xác đáng này càng đúng cho lĩnh vực dịch thuật văn chương. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tiến bước vào thế giới tâm hồn con người, bắc một nhịp cầu thông cảm tâm tư giữa hai nền văn hóa mà khởi sự tương giao?
Bài “Rạp xiếc” của Nakahara Chuya1 đã được tác giả Naruse Yukio trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã đưa ra làm ví dụ cho điều không thể dịch được bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, vượt lên trên ngôn ngữ, văn chương luôn có thể dịch được tâm tư tác giả chung một nỗi niềm thân phận con người. Đó cũng là cảnh giới cao nhất của dịch thuật mà các dịch giả phải nhắm đến.
Chúng ta cùng đọc bài thơ:
RẠP XIẾC
Biết bao thời đại trôi qua
Với cuộc chiến tranh màu xám
Biết bao thời đại trôi qua
Mùa đông gió thổi lạnh lùng
Biết bao thời đại trôi qua
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay
Từ chiếc xà cao của rạp xiếc
Một chiếc đu thả xuống đung đưa
Mơ hồ như có như không, ai biết
Chiếc đầu ngửa ra tay buông thõng
Từ trên mái dù vải bạt bẩn dơ
Đung đưa đung đưa đung đưa
Ngọn đèn thắp sáng gần đó
Thở dài ra sợi ruy băng rẻ tiền
Quan khách chen chúc như cá mòi
Khản cổ thét gào như vỏ hàu bị nghiến nát
Đung đưa đung đưa đung đưa
Ngoài rạp tăm tối đêm trường
Như kéo dài vô tận
Chiếc dù lượn cùng nỗi nhớ nhà xa xưa
Đung đưa đung đưa đung đưa
Như Paul Mackintosh và Maki Sugiyama nhận định về thơ Nakahara Chuya: “thơ ông lưu trữ rất nhiều những ngôn ngữ đời thường trong một sự đơn giản âm vang với nhịp điệu độc nhất của sự u uất và đa sầu đa cảm”2. Bản dịch bài thơ “Rạp xiếc”3 có thể nói chỉ là một mặt trái của bức tranh thêu, cho dù đầy đủ đường kim mũi chỉ thì cũng mất nhiều phần sắc nét của bên mặt phải. Có nghĩa là sức hấp dẫn của âm điệu bản gốc phần nào bị mất đi. Có thể gọi bản dịch gần như phải là một sáng tác mới gợi nên từ cảm hứng của bài thơ này. Tuy nhiên, vượt lên trên bức tường ngữ ngôn và văn hóa, chúng ta lại cảm thấy đồng điệu với tác giả về thân phận của một con người nghệ sĩ. Trong một túp lều nhân gian giữa đêm trường tối tăm, nhà nghệ sĩ cố gắng mua vui cho đám đông để tất cả quên đi nỗi hoài nhớ về một thiên đường quê nhà đã mất với những bất trắc của chiến tranh và lòng người. Có lẽ tác phẩm lớn nào cũng có thể “mua vui cũng được một vài trống canh” mà thôi.
Đặc trưng lớn nhất trong thơ Nakahara, theo như nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo nhận định là “Cảm giác xa xăm, cao viễn”. Đây là nguồn mạch của thơ ông. Yoshida viết “Ai trong chúng ta, hồi còn nhỏ, đều chắc chắn có lần cảm thấy một cảm giác mênh mông kỳ bí về vũ trụ không thể diễn tả bằng lời khi ngước nhìn lên trời sao thăm thẳm bao la. Nhưng riêng đối với Nakahara, ông đã mang theo những cảm giác trẻ thơ ấy đi suốt cuộc đời mình. Trong những câu mở đầu bài thơ “Rạp xiếc” nổi tiếng, “Bao thời đại” ở đây không phải nói đến những thời đại lịch sử mà qua sự lặp lại đó, ta phải hiểu nó ám chỉ một quá khứ xa xăm. Bài thơ này tiếp tục được triển khai về quang cảnh trong rạp xiếc và cuối cùng ý thơ hướng về thời gian tối tăm ở ngoài trời và một tương lai vô hạn. Cho nên quang cảnh trong rạp xiếc chỉ là một điểm trong dòng thời gian vô hạn đó thôi”4.
Bản dịch cũng giúp chúng ta phần nào cảm thụ thế giới tinh thần của tác giả và đồng cảm với nỗi niềm nghệ sĩ. Và vượt lên giới hạn ngôn ngữ văn hóa Nhật Bản, chúng ta lại nhìn thấy sự tương đồng với bài thơ “Hamlet” của nhà thơ Nga Boris Pasternak:
HAMLET
Tiếng ồn ào vừa tắt. Tôi bước ra sàn diễn
Tựa lưng vào cánh gà
Tôi lắng nghe nơi tiếng vọng từ xa
Những gì rồi xảy ra thời mình sống
Trong bóng đêm mập mờ nhập nhoạng
Hàng nghìn ống nhòm đang điều chỉnh chĩa vào tôi
Nếu có thể, Cha ơi
Chiếc chén đây xin hãy cất dời
Tôi yêu ý định ngang trái của Người
Chính tôi đã chấp thuận nhập vai
Nhưng giờ chuyển sang tuồng tích khác
Cho tôi nghỉ diễn lần này
Song kịch bản đã được duyệt rồi
Và đoạn kết con đường không tránh khỏi
Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi5
Như thế chúng ta có thể nói thực chất việc phiên dịch các tác phẩm văn chương chính là một cuộc tương giao vượt trên ngữ ngôn để nối kết tâm hồn nhân loại, để nhận chân về bản chất con người của chúng ta. Đó là điều không có máy móc nào có thể thay thế. Cho dù phương tiện kỹ thuật hiện đại thay đổi thế giới đến đâu đi nữa thì cái cảm xúc rưng rưng khi đọc được một bài thơ hay vẫn rất riêng con người mà không có cỗ máy nào cảm nhận được.
Để kết luận bài viết chúng tôi xin trích lời của chính tác giả Naruse:
“Dịch thuật là công việc của con người. Bởi vì dịch thuật kết nối tâm hồn con người lại với nhau. Máy móc chỉ có thể nối kết từ ngữ với từ ngữ, không thể nối kết tâm hồn và tâm hồn. Chỉ riêng có con người mới có thể “dĩ tâm truyền tâm”.
“翻訳は人間の仕事である。それは心と心をつなぐ営みだ からである。機械には言葉と言葉はつなげても心と心を つなぐことはできない。心と心をつなぐことができるのはただ人間だけだ”
Chừng nào con người trên trái đất còn sẻ chia chung một bầu trời và mặt đất, còn tranh đấu cho những điều đẹp đẽ quý giá vượt lên trên sự sống còn, văn chương và việc phiên dịch văn chương vẫn luôn tồn tại như liều thuốc chữa lành cần thiết an ủi mọi nỗi lầm than.
H.L
(TCSH437/07-2025)
-----------------
1 Nakahara Chuya (中原中也) sinh ngày 29/4/1907 tại tỉnh Yamaguchi, trung tâm của đạo Cơ đốc miền Tây Nhật Bản từ thế kỷ 16. Năm 13 tuổi đã có những bài tanka được chọn đăng trên các tạp chí. Năm 1924, ông được giới thiệu cho đọc những tác phẩm của Baudelaire, Rimbaud, Verlaine và bắt đầu đam mê văn học Pháp. Năm 1931, ông nhập học khoa tiếng Pháp trường ngoại ngữ Tokyo, chuẩn bị cho công cuộc dịch thơ Rimbaud sau này của ông. Hai tuyển tập thơ Rimbaud do ông dịch đã được in vào các năm 1933 và năm 1937. Khi qua đời ở tuổi 30 năm 1937, nhà thơ Nakahara Chuya chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta山羊の歌), “Bài ca ngày tháng cũ” (在りし日の歌Arishi hi no uta) nhưng vị trí của ông trong nền văn học Nhật Bản là không thể thay thế.
2 Paul Mackintosh và Maki Sugiyama, The poems of Nakahara Chuya, Nxb. Gracewing, 1993, phần lời dẫn nhập.
3 Bản dịch được chúng tôi dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, trích trong thi tập Nakahara Chuya, Nxb. Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
4 Dịch từ phần “Giải thuyết” của nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo in cuối thi tập Nakahara Chuya, Nxb Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
5 Bản dịch của Thanh Thảo và Phạm Vĩnh Cư, trích trong tuyển tập thơ Boris Pasternak, Sở Văn hóa và Thông tin Phú Khánh, 1987.
Tài liệu tham khảo:
1. Naruse Yukio (成瀬由紀雄), Phiên dịch nhập môn 翻訳の教科書, sách ebook trên mạng Internet.
2. HirakoYoshio (平子義雄), Nguyên lý dịch thuật (翻訳の原理)、Nxb. Taishukan (大修館書店), xuất bản năm 1999.
3. Hoàng Long, Bông hồng cho ngày tháng không tên (tiểu luận và dịch thuật về văn hóa văn học Nhật Bản), Nxb. Phụ Nữ, 2018.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.
HÀ VĂN LƯỠNG Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.
HOÀNG TẤT THẮNG 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.
NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.
PHẠM PHÚ PHONG Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau. Nguyễn Đình Thi
PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)
NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.
HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.
NGUYỄN HUỆ CHI Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.
ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.
THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.
TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)
MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.
HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)
VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.