Vậy tổng quát thì dịch thuật là gì và quá trình dịch thuật ra sao? Dịch là quá trình truyền đạt nội dung ý nghĩa văn bản. Nida, một học giả nổi tiếng đã xem dịch thuật là một quá trình giải mã (decoding) và nhập mã lại (recoding) trải qua ba giai đoạn: phân tích, chuyển hóa, cơ cấu lại. Tác giả Naruse Yukio (成瀬由紀雄) trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã cho rằng về cơ bản dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là “giải thích” văn bản gốc (hiểu ý nghĩa) sau đó giai đoạn hai là “diễn đạt” ý nghĩa tương đương trong văn bản dịch. Việc “giải thích” thực chất là tìm hiểu ý nghĩa của văn bản và gán giá trị tương đương (等価 -とうか) để có thể truyền tải trọn vẹn thông điệp của văn bản gốc.
Do dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn là giải thích và diễn đạt, mang nặng sắc thái chủ quan nên không thể nào có một bản dịch tuyệt đối đúng. Phiên dịch chính là sự sáng tạo của từng dịch giả (翻訳は翻訳者一人一人の創造するものである). Chính vì vậy đi cùng với sự tự do chính là trách nhiệm nặng nề mà mỗi dịch giả phải đảm đương. Ngoài ra một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dịch thuật đó chính là tấm lưới lọc văn hóa. Khi tiếp cận một nền văn học của một xứ sở khác, điều đầu tiên chúng ta phải đối mặt chính là ngôn ngữ và văn hóa. Ta phải nghiên cứu đặc thù của ngôn ngữ và những đặc trưng văn hóa của đất nước đó kỹ lưỡng sau đó mới có thể hiểu được những tác phẩm văn học.
Chúng ta thử xem một trường hợp dịch của câu tục ngữ sau đây:
“Đá lăn rêu không mọc”
“A rolling stone gathers no moss.”
転がる石はコケむさない
Đây vốn là câu tục ngữ của Anh. Khi được truyền bá sang Mỹ và dịch sang tiếng Nhật, câu này được hiểu là nhấn mạnh tính năng động sáng tạo, trở thành triết lý “hòn đá lăn”, trong đó “lăn” được hiểu là nhiệt huyết, năng động, không chịu ngồi yên chấp nhận hoàn cảnh, còn “rêu” tượng trưng cho sự tiêu cực, sầu não, ám muội… Thế nhưng trong nguyên gốc tại Anh Quốc, câu này mang ý nghĩa ngược lại hoàn toàn. Vốn là nền văn hóa thiên về giá trị tĩnh tại nên “rêu” ở đây lại tượng trưng cho sự thành công. Và câu này có nghĩa là người nào thường xuyên thay đổi chỗ làm việc sẽ khó đạt được thành công.
Ví dụ này cho ta thấy điều gì? Vấn đề phiên dịch phần lớn không nằm ở trong ngôn ngữ mà trong cách hiểu in đậm dấu ấn văn hóa của chúng ta. Ngoài ra, khi phiên dịch văn chương, ta cần chú ý đến yếu tố exotic (外来の、別世界の) là ngoại lai, dị biệt mà chúng ta có thể dịch là yếu tố xa lạ (xa về địa lý và lạ về tâm lý).
Văn chương Nhật Bản nằm trong dòng chảy phương Đông có đặc thù là dồn nén cô đọng, chưa kể đặc thù của tiếng Nhật và những cảm thức thẩm mỹ của người Nhật Bản rất khác với Việt Nam. Như thế những điều mà người Nhật cảm thấy đương nhiên thì đối với người Việt Nam lại không hề là đương nhiên chẳng hạn như cảm thức aware, sabi, wabi… Vì thế khi chuyển dịch khó khăn nhiều khi không nằm ở ngôn ngữ mà nằm nơi vấn đề cảm thụ của người dịch và người đọc. Thơ haiku là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Như một bài haiku ám ảnh:
Dẫm trái khô vỡ
Làm quên
Số đếm bậc thang
Đối với người Việt Nam bài này rất khó hiểu nhưng với người từng sống ở Nhật, bài thơ ngắn này gợi ra cả một trời thu bát ngát. Việt Nam, đặc biệt trong miền Nam không hề có bốn mùa luân chuyển nên đặc trưng về mùa không rõ rệt. Nhưng Nhật Bản vào thu, lá vàng lá đỏ ngập một khung trời. Ta có thể hình dung một người đang bước lên cầu thang đá đến một đền thờ Thần đạo trên núi cao. Anh ta đang đếm bước cầu thang để xem có bao nhiêu bậc thang, để xem ngôi đền nằm vị trí cao cỡ nào. Trong khi bước, anh vô tình dẫm lên một trái cây khô rụng dưới chân và ngẩng đầu lên. Nếu đã có kinh nghiệm sống ở Nhật ta có thể hình dung ngay một rừng cây lá đỏ phủ ngập ngọn đồi, trái khô vỡ vương vãi khắp nơi. Trên đồi cao thấp thoáng ngôi đền thần đạo lặng yên trầm mặc. Bài thơ ngắn gọn giản dị mà gợi cả một trời thu bát ngát.
Nếu như ta am hiểu về những khái niệm mỹ học Nhật Bản như “Tịch liêu” (Sabi 寂) hay “Vô thường” (Mujo無常) thì việc cảm thụ bài thơ là gần như toàn bích, như người Nhật Bản. Và nếu chúng ta biết thêm một điều nữa là khi người Nhật ngắm lá đỏ là gửi gắm vào đó bao nhiêu ý nghĩa về cuộc đời, chúng ta lại hiểu thêm một tầng mức khác nữa. Tuy mùa xuân lá nào cũng xanh nhưng sang đến mùa thu có cây lá vàng có cây lá đỏ... cũng như đời người tuổi nhỏ ai cũng như nhau nhưng lớn lên mỗi người mỗi khác, “chín” theo kiểu của riêng mình, đi những con đường khác nhau. Chính vì vậy mà cuộc đời mới đẹp, cánh rừng mới đẹp vì được tô điểm nhiều màu sắc “muôn tía với ngàn hồng”.
Xét đến tận cùng khi đã đi qua ba lớp văn hóa, giải thích và diễn đạt của người dịch chúng ta sẽ không còn một tác phẩm gốc nguyên vẹn mà là một tác phẩm phái sinh được diễn giải qua lăng kính ba chiều.
Để trở thành một dịch giả, về tổng quát thì người dịch cần phải có năng lực đọc viết, am hiểu tri thức chuyên môn và có kiến thức, kỹ thuật phiên dịch như ngôn ngữ học so sánh, lịch sử phiên dịch, kỹ thuật phiên dịch…. Người dịch cần phải có đam mê, hiểu rõ lĩnh vực của mình. “Trong dịch thuật cái gì cũng dịch được có nghĩa là chẳng dịch được cái gì cả” (翻訳で「何でもできる」は「何もできない」と同義です). Dịch giả cần phải có chuyên môn sâu về lĩnh vực mình dịch hoặc về y học, kinh tế, tài chính, văn chương hay triết học.
Đối với dịch văn chương, điều quan trọng nhất ngoài sự đam mê thì chúng ta cần phải có khả năng cảm thụ sâu sắc và khả năng viết văn.
Khả năng cảm thụ liên quan đến việc thưởng thức văn bản theo nhãn quan riêng của mình. Như trường hợp nhà văn và dịch giả nổi tiếng thời Minh Trị Natsume Soseki chuyên nghiên cứu về văn học Anh. Ông đã rất khổ sở tìm hiểu liệu rằng người Nhật có thể thưởng thức được một văn bản được viết bằng tiếng Anh không? Nếu như không thể thì ý nghĩa của việc nghiên cứu văn học Anh của một người Nhật như Soseki nằm ở chỗ nào?
Thường trong trường hợp này sẽ có hai phương pháp giải quyết. Đầu tiên là cứ phó mặc cho người bản ngữ. Chẳng hạn “chuyên gia hàng đầu về tiếng Anh người bản ngữ nói là bản văn này ý tứ thâm sâu, do đó văn bản này thâm sâu ý nghĩa”… Đây là cách truyền thống của học giới Nhật Bản. Cách thứ hai là nhận định tuy mình không phải là người bản xứ nhưng cứ luyện tập liên tục, đến một lúc nào đó khả năng cảm thụ của mình cũng không khác lắm so với người bản xứ bao nhiêu. Nhưng rõ ràng là dù nỗ lực thế nào đi nữa cũng không thể nào trở thành như người bản xứ được.
Cách của Soseki cảm thụ từ lập trường của chính bản thân mình (自分なりJibunnari). Soseki đưa ra kết luận rằng nếu mình là người nước ngoài thì cứ thưởng thức bản văn theo kiểu của mình. Tất nhiên cách thưởng thức cá nhân đó có thể khác biệt chút ít với người Anh bản xứ nhưng vì chúng ta có thể thưởng thức được do đó cách thưởng thức của chúng ta cũng có ý nghĩa như cách thưởng thức của người bản xứ vậy. Đó là kết luận của Soseki.
Như vậy đầu tiên về việc cảm thụ bản văn chúng ta nên cảm thụ theo cách của mình như Soseki đã chỉ ra. Việc cảm thụ sẽ liên quan đến việc giải thích bản văn sau đó khi chuyển sang giai đoạn hai là “diễn đạt” thì chúng ta cần phải lưu ý khả năng viết của mình. Đây là một điều thú vị đương nhiên nhưng ít người để ý. Nếu chúng ta không thể diễn đạt được ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ thì chúng ta không thể nào dịch hay được.
Trong vấn đề phiên dịch tác giả Naruse chia làm bốn cấp độ: dịch những điều phổ biến, dịch mang sắc thái văn hóa, dịch nỗi niềm tác giả và cuối cùng là sức hấp dẫn của ngôn ngữ gốc. Tác giả Naruse chia sẻ thống thiết như sau: “Làm nghề dịch thuật đã nhiều năm tôi hiểu ra rằng xét đến tận cùng dịch thuật chỉ là dối trá. Bởi vì cho dù một bản dịch xuất sắc đến đâu đi nữa cũng đều khác biệt với nguyên tác. Đây không phải nói về mức độ dịch ý nghĩa hay dịch từ Anh sang Nhật mà là suy xét trên bình diện diễn đạt ngôn ngữ. Theo ý nghĩa đó, xét về bản chất dịch thuật chỉ là dối trá hư ngụy thôi. Tuy nhiên trong cảnh tuyệt vọng tối tăm như thế chúng ta, những người làm nghề dịch thuật vẫn nhìn ra ánh sáng phía cuối đường. Đó là sự sẻ chia hình ảnh, tâm tư tình cảm con người, tức là khả năng tương giao nhân loại. Chính vì vậy mà dịch thuật là việc giải phóng khỏi thế giới ngữ ngôn để tiến nhập vào thế giới của hình ảnh, có khả năng nối kết với thế giới của tâm hồn con người. Đó là điều mà tôi mong mỏi.”
Lời nhận xét xác đáng này càng đúng cho lĩnh vực dịch thuật văn chương. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tiến bước vào thế giới tâm hồn con người, bắc một nhịp cầu thông cảm tâm tư giữa hai nền văn hóa mà khởi sự tương giao?
Bài “Rạp xiếc” của Nakahara Chuya1 đã được tác giả Naruse Yukio trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã đưa ra làm ví dụ cho điều không thể dịch được bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, vượt lên trên ngôn ngữ, văn chương luôn có thể dịch được tâm tư tác giả chung một nỗi niềm thân phận con người. Đó cũng là cảnh giới cao nhất của dịch thuật mà các dịch giả phải nhắm đến.
Chúng ta cùng đọc bài thơ:
RẠP XIẾC
Biết bao thời đại trôi qua
Với cuộc chiến tranh màu xám
Biết bao thời đại trôi qua
Mùa đông gió thổi lạnh lùng
Biết bao thời đại trôi qua
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay
Từ chiếc xà cao của rạp xiếc
Một chiếc đu thả xuống đung đưa
Mơ hồ như có như không, ai biết
Chiếc đầu ngửa ra tay buông thõng
Từ trên mái dù vải bạt bẩn dơ
Đung đưa đung đưa đung đưa
Ngọn đèn thắp sáng gần đó
Thở dài ra sợi ruy băng rẻ tiền
Quan khách chen chúc như cá mòi
Khản cổ thét gào như vỏ hàu bị nghiến nát
Đung đưa đung đưa đung đưa
Ngoài rạp tăm tối đêm trường
Như kéo dài vô tận
Chiếc dù lượn cùng nỗi nhớ nhà xa xưa
Đung đưa đung đưa đung đưa
Như Paul Mackintosh và Maki Sugiyama nhận định về thơ Nakahara Chuya: “thơ ông lưu trữ rất nhiều những ngôn ngữ đời thường trong một sự đơn giản âm vang với nhịp điệu độc nhất của sự u uất và đa sầu đa cảm”2. Bản dịch bài thơ “Rạp xiếc”3 có thể nói chỉ là một mặt trái của bức tranh thêu, cho dù đầy đủ đường kim mũi chỉ thì cũng mất nhiều phần sắc nét của bên mặt phải. Có nghĩa là sức hấp dẫn của âm điệu bản gốc phần nào bị mất đi. Có thể gọi bản dịch gần như phải là một sáng tác mới gợi nên từ cảm hứng của bài thơ này. Tuy nhiên, vượt lên trên bức tường ngữ ngôn và văn hóa, chúng ta lại cảm thấy đồng điệu với tác giả về thân phận của một con người nghệ sĩ. Trong một túp lều nhân gian giữa đêm trường tối tăm, nhà nghệ sĩ cố gắng mua vui cho đám đông để tất cả quên đi nỗi hoài nhớ về một thiên đường quê nhà đã mất với những bất trắc của chiến tranh và lòng người. Có lẽ tác phẩm lớn nào cũng có thể “mua vui cũng được một vài trống canh” mà thôi.
Đặc trưng lớn nhất trong thơ Nakahara, theo như nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo nhận định là “Cảm giác xa xăm, cao viễn”. Đây là nguồn mạch của thơ ông. Yoshida viết “Ai trong chúng ta, hồi còn nhỏ, đều chắc chắn có lần cảm thấy một cảm giác mênh mông kỳ bí về vũ trụ không thể diễn tả bằng lời khi ngước nhìn lên trời sao thăm thẳm bao la. Nhưng riêng đối với Nakahara, ông đã mang theo những cảm giác trẻ thơ ấy đi suốt cuộc đời mình. Trong những câu mở đầu bài thơ “Rạp xiếc” nổi tiếng, “Bao thời đại” ở đây không phải nói đến những thời đại lịch sử mà qua sự lặp lại đó, ta phải hiểu nó ám chỉ một quá khứ xa xăm. Bài thơ này tiếp tục được triển khai về quang cảnh trong rạp xiếc và cuối cùng ý thơ hướng về thời gian tối tăm ở ngoài trời và một tương lai vô hạn. Cho nên quang cảnh trong rạp xiếc chỉ là một điểm trong dòng thời gian vô hạn đó thôi”4.
Bản dịch cũng giúp chúng ta phần nào cảm thụ thế giới tinh thần của tác giả và đồng cảm với nỗi niềm nghệ sĩ. Và vượt lên giới hạn ngôn ngữ văn hóa Nhật Bản, chúng ta lại nhìn thấy sự tương đồng với bài thơ “Hamlet” của nhà thơ Nga Boris Pasternak:
HAMLET
Tiếng ồn ào vừa tắt. Tôi bước ra sàn diễn
Tựa lưng vào cánh gà
Tôi lắng nghe nơi tiếng vọng từ xa
Những gì rồi xảy ra thời mình sống
Trong bóng đêm mập mờ nhập nhoạng
Hàng nghìn ống nhòm đang điều chỉnh chĩa vào tôi
Nếu có thể, Cha ơi
Chiếc chén đây xin hãy cất dời
Tôi yêu ý định ngang trái của Người
Chính tôi đã chấp thuận nhập vai
Nhưng giờ chuyển sang tuồng tích khác
Cho tôi nghỉ diễn lần này
Song kịch bản đã được duyệt rồi
Và đoạn kết con đường không tránh khỏi
Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi5
Như thế chúng ta có thể nói thực chất việc phiên dịch các tác phẩm văn chương chính là một cuộc tương giao vượt trên ngữ ngôn để nối kết tâm hồn nhân loại, để nhận chân về bản chất con người của chúng ta. Đó là điều không có máy móc nào có thể thay thế. Cho dù phương tiện kỹ thuật hiện đại thay đổi thế giới đến đâu đi nữa thì cái cảm xúc rưng rưng khi đọc được một bài thơ hay vẫn rất riêng con người mà không có cỗ máy nào cảm nhận được.
Để kết luận bài viết chúng tôi xin trích lời của chính tác giả Naruse:
“Dịch thuật là công việc của con người. Bởi vì dịch thuật kết nối tâm hồn con người lại với nhau. Máy móc chỉ có thể nối kết từ ngữ với từ ngữ, không thể nối kết tâm hồn và tâm hồn. Chỉ riêng có con người mới có thể “dĩ tâm truyền tâm”.
“翻訳は人間の仕事である。それは心と心をつなぐ営みだ からである。機械には言葉と言葉はつなげても心と心を つなぐことはできない。心と心をつなぐことができるのはただ人間だけだ”
Chừng nào con người trên trái đất còn sẻ chia chung một bầu trời và mặt đất, còn tranh đấu cho những điều đẹp đẽ quý giá vượt lên trên sự sống còn, văn chương và việc phiên dịch văn chương vẫn luôn tồn tại như liều thuốc chữa lành cần thiết an ủi mọi nỗi lầm than.
H.L
(TCSH437/07-2025)
-----------------
1 Nakahara Chuya (中原中也) sinh ngày 29/4/1907 tại tỉnh Yamaguchi, trung tâm của đạo Cơ đốc miền Tây Nhật Bản từ thế kỷ 16. Năm 13 tuổi đã có những bài tanka được chọn đăng trên các tạp chí. Năm 1924, ông được giới thiệu cho đọc những tác phẩm của Baudelaire, Rimbaud, Verlaine và bắt đầu đam mê văn học Pháp. Năm 1931, ông nhập học khoa tiếng Pháp trường ngoại ngữ Tokyo, chuẩn bị cho công cuộc dịch thơ Rimbaud sau này của ông. Hai tuyển tập thơ Rimbaud do ông dịch đã được in vào các năm 1933 và năm 1937. Khi qua đời ở tuổi 30 năm 1937, nhà thơ Nakahara Chuya chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta山羊の歌), “Bài ca ngày tháng cũ” (在りし日の歌Arishi hi no uta) nhưng vị trí của ông trong nền văn học Nhật Bản là không thể thay thế.
2 Paul Mackintosh và Maki Sugiyama, The poems of Nakahara Chuya, Nxb. Gracewing, 1993, phần lời dẫn nhập.
3 Bản dịch được chúng tôi dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, trích trong thi tập Nakahara Chuya, Nxb. Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
4 Dịch từ phần “Giải thuyết” của nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo in cuối thi tập Nakahara Chuya, Nxb Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
5 Bản dịch của Thanh Thảo và Phạm Vĩnh Cư, trích trong tuyển tập thơ Boris Pasternak, Sở Văn hóa và Thông tin Phú Khánh, 1987.
Tài liệu tham khảo:
1. Naruse Yukio (成瀬由紀雄), Phiên dịch nhập môn 翻訳の教科書, sách ebook trên mạng Internet.
2. HirakoYoshio (平子義雄), Nguyên lý dịch thuật (翻訳の原理)、Nxb. Taishukan (大修館書店), xuất bản năm 1999.
3. Hoàng Long, Bông hồng cho ngày tháng không tên (tiểu luận và dịch thuật về văn hóa văn học Nhật Bản), Nxb. Phụ Nữ, 2018.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".