Di tích cổng Kholm của pháo đài Brext với vô số vết đạn - Ảnh: wikipedia.org
HẢI KỲ Tượng đài Brext Nhóm tượng đài Brext Những anh hùng vô danh Tạc nên bằng máu lửa Tự ngày đầu chiến tranh Thuở ấy tôi chưa sinh Anh đã dầm lửa đạn Đến khi tôi biết nhìn Anh - tượng đài im lặng Bao nhiêu ngày oanh liệt Brext, Trái tim vàng Tổ quốc, lời vĩnh biệt Chết không chịu đầu hàng (1) Hai triệu người ngã xuống Trên Bêlôruxia (2) Đều trong tư thế ấy Từ Brext ra đi Giặc dội đầy sắt thép Anh, pháo - đài - trái - tim Giặc tràn như sóng Anh, chiến - hạm - không - chìm Biết ơn và ngưỡng mộ Đời tạc đá hoa cương Người anh hùng đã tạc Chân dung bằng máu xương Mang vòng hoa chiến thắng Tổ quốc trong mỗi người Như tượng đài Brext Vĩnh hằng trong cuộc đời.. Thuở ấy tôi chưa sinh Anh đã dầm lửa đạn Đến khi tôi biết nhìn Anh - tượng đài im lặng Tổ quốc, lời vĩnh biệt CHẾT KHÔNG CHỊU ĐẦU HÀNG Đến muôn đời bất diệt BREXT, TRÁI TIM VÀNG. 21-10-1982 --------- (1) Khẩu hiệu bằng máu chiến sĩ Xô Viết ghi ở pháo đài Brext. (2) Trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, Bêlôruxia hy sinh hai triệu người. ĐỖ HOÀNG Bài thơ tình trong đêm hội I-van Ku-pa-la Đêm hội I-van Ku-pa-la Anh đến cùng em Tháng sáu về tốt tươi cây cỏ Như mùa xuân quê anh vậy đó Tuyết tan rồi Nắng ấm đôi môi! Đất Bêlôruxia Hương đồng dâng trăm nơi Vào hội Ku-pa-la nào! Vào hội Ku-pa-la nào! Ơi những chàng trai đẹp như con tuấn mã Và em dịu dàng nàng tiên cá Mùa gặt xong rồi Ta đi hội bên nhau! Hội I-van Ku-pa-la Như mối tình đầu Cho anh được gặp vòng hoa em trên sóng nước Cho anh nghe lời hẹn ước Trái tim như lửa cháy bừng! Giặc giã lụi tàn Thời gian cuồn cuộn dâng Đất nước bình yên, áo em lung linh sắc nắng Bêlôruxia như quê anh Gặp trời biển rộng Đêm hội về khuya vỡ ra những tiếng cười Ai thắng ai? Trong cuộc đua tài Anh hăm hở tìm em trên nội cỏ Đôi mắt em ánh mặt hồ soi tỏ Nhạc thanh bình cho tiếng hát say mê Em I-van Ku-pa-la bát ngát đồng quê Vòng hoa mang lời ước hẹn em đưa dòng sông trôi mãi Chỉ có tình yêu trở lại Như anh từ đất Việt đến tìm em! Em thuộc thân như nhánh kiều mạch thơm Như ngõ phố nông trang con đường nhựa mới Lại xa xôi như ánh sao kia Anh còn nhảy qua nghìn đống lửa 2-1982 --------- Hội I-van Ku-pa-la là hội truyền thống của nông dân Bêlôruxia thường tổ chức vào tiết hạ chí (20-6). Tổ chức ở trên đồng cỏ hay trên một bìa rừng chọn sẵn. Các cô gái tết những vòng hoa cỏ nội thả trên sông tìm những chàng trai đua tài bằng cách nhảy qua các đống lửa. NGUYỄN KHẮC THẠCH Với người bạn Nga Tôi vẫn thầm mong ước Có một lần đi qua Bêlôruxia Như bạn giờ thăm Huế Bạn ơi đừng trách nhé Dù chưa tới Minxcơ Nhưng tôi từng chia xẻ Ngày đất bạn xác xơ! Bạn vào thăm thành xưa Bóng chiều buông trầm mặc Hoa sứ rơi đầy gốc Nhớ người phơi máu xương!... Đi qua những đồi thông Bạn thương vòm lá nhọn Phấn thông vàng bịn rịn Gió mơ rừng bạch dương Bạn nghe từ sông Hương Làn dân ca man mác Như giai điệu quê mình Chan chứa niềm khao khát Ôi! Thảy đều thân thuộc Từ ánh mắt mong chờ Giữa hai vòng tay xiết Nhìn nhau, gặp tứ thơ… (4/12-83) |
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)
Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis
Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.
Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp
Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.
XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)
Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).
Ludmila TatianitchevaTuổi tôi
OCTAVIO PAZ Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt
J.W.GOETHECa khúc thiêng liêng
LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.
LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)
WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)
FRED MARCHANT (Mỹ) Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.
Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.
PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP
LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.
Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.
RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865 Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.
ALLEN GINSBERG(Tôn vinh Kenneth Koch) (1)LGT: Allen Ginsberg (1926 - 1997): là một nhà thơ hậu hiện đại Mỹ nổi tiếng trong trào lưu Beat cùng với Jack Kerowack và Williams S. Burroughs. Tốt nghiệp đại học năm 1948, làm đủ thứ nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị.