Về một bài thơ còn sót lại của ông hoàng Thọ Xuân Vương - Nguyễn Phúc Miên Định

10:10 05/02/2018

NGUYỄN VĂN CƯƠNG

Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.

"Phủ Thọ Xuân Vương hiện tọa lạc tại số 209 đường Chi Lăng, phường Phú Cát, thành phố Huế" - Ảnh: internet

Khi Gia phi mất, Vương mới 3 tuổi, được Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu nuôi ở trong cung. Lúc nhỏ yếu đuối nhưng đĩnh ngộ, học ở chái tây điện Cần Chánh, Thế Tổ Cao Hoàng đế thường thấy cắp cặp đi học, càng khuyến khích khen ngợi. Khi lớn tướng mạo đẹp đẽ, tư chất hơn người. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Vương cùng Hoàng trưởng tử (tức vua Thiệu Trị sau này) được lệnh lập phủ riêng. Ông được lệnh lập phủ ở phía trái kinh thành để tiện việc phụng hầu. Vương vốn tinh thông mọi sách, nổi danh về thơ, càng giỏi về ứng chế. Năm 1842, Vương hộ giá vua Thiệu Trị ra bắc nhận lễ tuyên phong; năm 1865, Vương đổi làm Tả Tôn Chính, rồi được phong Thọ Xuân Quận Vương năm 1874 và đổi thành Thọ Xuân Vương năm 1878. Vua Tự Đức mất (1883), ông sung Hội đồng phụ chính, làm phụ chính thân thần; sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn (1885), ông nhiếp chính một thời gian cho đến vua Đồng Khánh lên ngôi. Ông mất ngày 10 tháng mười năm Bính Tuất (5/11/1886), thụy là Đoan Kháp. Tác phẩm của ông lúc sinh thời gồm: Minh Mạng cung từ, Tỉnh Minh Ái Phương thi tập

1. Giai thoại mắng sứ thần nhà Thanh để giữ gìn quốc thể của Miên Định

Sách Đại Nam liệt truyện có chép lại chuyện năm Thiệu Trị thứ hai (1842), vua ngự giá Bắc tuần làm lễ bang giao, Thọ Xuân Vương Miên Định được sung làm Ngự tiền thân thần. Ngày hành lễ, sứ thần nhà Thanh là Bảo Thanh ngồi trên kiệu đi vào cửa Chu Tước. Như thế là phạm nghi thức điển lễ. Các quan văn võ đứng hai bên rất bất bình nhưng không một ai dám lên tiếng, quan đón tiếp cũng không dám ngăn cản. Thấy nhà vua, Quốc thể bị xúc phạm, Thọ Xuân Vương nổi giận, chỉ vào mặt sứ giả Thanh triều đang ngồi trên kiệu thét lớn: “Nghi thức bang giao không cho phép nhà ngươi ngồi trên kiệu đến trước mặt Hoàng đế Đại Nam. Hãy xuống kiệu ngay lập tức”. Sứ Thanh giật mình, xuống kiệu trong sự lúng túng, xấu hổ. Lễ tất, nhà vua mở yến tiệc khoản đãi, sứ nhà Thanh từ chối, xin lui về công quán nghỉ ngơi. Thấy vậy các quan lấy làm lo lắng. Có người tâu: “Lỗi này là do Thọ Xuân Vương đã lớn tiếng với sứ giả”. Vua Thiệu Trị nói: “Nghi thức điển lễ bang giao đã đưa trước cho sứ nhà Thanh xem. Tại sao sứ Thanh lại phạm tất? Nếu Thọ Xuân Vương không biết tự trọng, sợ nước lớn thì Quốc thể Đại Nam còn ra gì? Sứ Thanh là người có học đáng lẽ phải biết điều đó. Cớ sao sai phạm rồi còn giận dỗi từ chối khoản đãi? Người mình mà không biết trọng Quốc thể của mình trách gì người ngoài? Các khanh nên xét cho kỹ”. Sau lễ sắc phong vua ban khen Thọ Xuân Vương. Trở về Huế nhà vua thưởng cho Thọ Xuân Vương một viên ngọc có khắc 4 chữ đặc dị quyến bưu (sủng ái đặc biệt).

2. Về phủ thờ và bài thơ trong Tỉnh minh Ái Phương thi tập

Phủ Thọ Xuân Vương hiện tọa lạc tại số 209 đường Chi Lăng, phường Phú Cát, thành phố Huế. Phủ được dựng năm 1823, sau cải tạo làm nhà thờ, quy mô khá lớn, ba gian hai chái dài 20m, rộng 15m trong khuôn viên khoảng 20.000m2, nhưng đã sụp đổ hẳn năm 1968 vì bom đạn; đến năm 1991, con cháu dựng vật liệu cũ làm lại tiền đường và chính đường nhỏ ba gian dài 10m, rộng 5m, kiểu cách hiện đại. Phía trước nhà thờ có tấm bia đá khắc bài văn ngự chế của vua Tự Đức tặng ông nhân dịp mừng thọ Vương 70 tuổi với tựa đề “Tứ Thọ Xuân Vương thất thập thọ tự tịnh ca”.

Kiến trúc cũ chỉ còn duy nhất cổng tam quan kiểu cổ lâu ba cửa vòm, xây gạch trát vôi. Phía trước mặt cổng có hàng chữ ngang đề: Thọ Xuân Vương từ môn - Cổng nhà thờ Thọ Xuân Vương) và 2 cặp đối bằng chữ Hán trên trụ biểu. Hai câu đối như sau: cặp thứ nhất: “Dữ tộc đồng hưu, tình điện báo quốc/ Hà thiên tích hựu, phúc mãn diên niên” - Vui cùng dòng tộc, vì nước ra sức gìn giữ/ Ơn trời ban che, phúc mãi đời đời. Cặp thứ hai: “Thị thần nhất đẳng trung cần, danh thắng vạn cổ/ Đế tử tứ triều lịch sự, lộc trọng thiên chung” - Bề tôi trung cần bậc nhất, danh thắng nghìn xưa/ Con vua trải qua bốn triều, hưởng lộc dồi dào.

3. Về Tỉnh Minh Ái Phương thi tập của Miên Định

Theo Thông báo Hán Nôm của TS. Trần Trọng Dương, Khảo sát tình hình văn bản tác phẩm một số tác gia hoàng tộc triều Nguyễn (TBHNH 2009), Viện Hán Nôm có đoạn: “Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành khảo sát văn bản của một số tác gia hoàng tộc triều Nguyễn mà từ trước đến nay ít người biết đến, gồm 18 tác giả. Đó là những người có thi tập, có thể đứng riêng thành một tác giả lớn, cũng có thể đó là tác giả chỉ còn để lại một số bài thơ được chép trong một số tuyển thơ. Còn các tác gia nổi tiếng có ít nhiều tác phẩm đã được dịch chú và đã được nghiên cứu như Miên Thẩm, Miên Trinh, Mai Am, Huệ Phố, Minh Mệnh, Tự Đức thì chúng tôi xin được để lại trong một dịp khác.

Trong số 18 tác giả, có 12 tác giả có thi tập, văn tập và trứ tác riêng, bao gồm:
Miên Định, Miên Bửu, Miên Bật, Miên Cư, Miên Ngung, Miên Thanh, Hường Vịnh, Hường Sâm, Hường Y, Miên Tuấn, Ưng Phúc, tổng cộng có 16 tập thơ văn. Tuy nhiên, theo sự tra cứu của chúng tôi (qua [1], [10], [11]), đa số văn bản của các tác phẩm này đã thất truyền, đó là các tập: Minh Mệnh cung từ, Minh Tĩnh ái phương thi tập, Hân nhiên thi tập, Duân Đình thi thảo, Cống thảo viên thi, Di hiên, Hỷ mặc, Trúc Lâm, Đạo nam, Bồ Sơn. Duy có Duân Đình thi thảo của Miên Thanh còn một phần, được chép trong cuốn Đào Trang tập của Hường Vịnh mang tên Duân Đình thi thảo trích lục.

Theo nhà Nghiên cứu Trần Đại Vinh, vào năm 1984, ông đã từng đến nhà thờ này và lúc đó phủ thờ Thọ Xuân Vương vẫn còn lưu giữ tập “Tỉnh Minh Ái Phương thi tập” đang tình trạng mục nát. Hiện nay, tập thơ này đã không còn.

Cổng tam quan - kiến trúc cổ duy nhất còn lại của phủ thờ
Bài thơ “Hữu đề Ái Phương viên” được viết bằng chữ Hán treo đối diện điện thờ


Tuy nhiên tại hệ thống Hoành phi, đối liễn tại phủ thờ, ngoài bức hoành Thọ Xuân Vương từ (Phủ thờ Thọ Xuân Vương) treo chính giữa điện thờ. Chúng tôi phát hiện một bức treo đối diện có tựa đề Hữu đề Ái Phương viên (Đề vườn Ái Phương) bằng chữ Hán. Theo nội dung được dịch từ Bức hoành phi này, chúng tôi xác định đây chính là bài thơ còn lại duy nhất trong tập thơ Tỉnh Minh Ái Phương thi tập. Bài thơ như sau:

Nguyên văn:

東池閱厯几芳春
雅愛風光不厭陳
未忍蓁蕪堙舊勝
翻教整葺闡前因
桃紅柳綠毋多麗
陋屋茅薝有可人
幾幅花田逢雨後
一般眞趣入眸新
(右題愛芳園)

Phiên âm:

Đông trì duyệt lịch kỷ phương xuân
Nhã Ái phong quang bất yêm trần
Vị nhẫn trăn vu nhân cựu thán
Phiên giao chỉnh tập xiển tiền nhân
Đào hồng liễu lục vô đa lệ
Lậu ốc mao chiêm hữu khả nhân
Kỉ bức hoa điền phùng vũ hậu
Nhất ban chân thú nhập mâu tân

Dịch nghĩa:

Đông Trì(1) đã trải qua mấy độ xuân;
Mà phong cảnh vườn Ái Phương(2) vẫn tĩnh lặng xưa cũ.
Không nỡ để cho thắng cảnh cũ trở nên mai một,
Cho nên chỉnh đốn, sửa sang để hiển dương công đức của tiền nhân.
Cây Đào Hồng, cây Liễu xanh tuy không đẹp lắm,
Nhưng gian nhà tranh đơn sơ cũng đủ để làm vui lòng người.
Mấy thửa ruộng hoa sau cơn mưa rào,
Tất cả đều trở thành một thú vui tao nhã và chân thật.

Dịch theo nguyên thể:

Đông Trì đã qua độ mấy xuân;
Nhã Ái vườn xưa lắng bụi trần.
Chớ để cảnh xưa nên tàn tích;
Chỉnh đốn, sửa sang tỏ tiền nhân.
Đào hồng, liễu rũ tuy chưa đẹp;
Chỉ mỗi ngẩn ngơ gian liều gần.
Mấy thửa ruộng hoa vừa điểm lệ;
Cũng là chân thú bậc tao nhân.


Bài thơ Hữu đề Ái Phương viên nằm trong tác phẩm Tỉnh Minh Ái Phương thi tập của Thọ Xuân Vương, một trong những áng thơ còn sót lại trong tập thơ của ông, nội dung bài thơ mang đậm thể tài điền viên sơn thủy có hơi hướng thiền thi. Thiết nghĩ, đây là một tư liệu quý còn sót lại của ông hoàng nổi tiếng Thọ Xuân Vương cần được giới thiệu đến công chúng để chúng ta hiểu hơn và quý trọng những giá trị di sản văn hóa của tiền nhân để lại.

N.V.C
(SHSDB27/12-2017)


....................................
(1) Đông Trì: tên địa danh thời nhà Nguyễn, hiện nay ở địa phận phường Phú Cát, thành phố Huế.
(2) Nhã Ái: tức vườn Ái Phương. Có thể trước khi ngôi phủ được trùng tu lại, nơi đây đã từng tồn tại một danh thắng vườn Ái Phương.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.