NGUYỄN VĂN CƯƠNG
Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.
"Phủ Thọ Xuân Vương hiện tọa lạc tại số 209 đường Chi Lăng, phường Phú Cát, thành phố Huế" - Ảnh: internet
Khi Gia phi mất, Vương mới 3 tuổi, được Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu nuôi ở trong cung. Lúc nhỏ yếu đuối nhưng đĩnh ngộ, học ở chái tây điện Cần Chánh, Thế Tổ Cao Hoàng đế thường thấy cắp cặp đi học, càng khuyến khích khen ngợi. Khi lớn tướng mạo đẹp đẽ, tư chất hơn người. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Vương cùng Hoàng trưởng tử (tức vua Thiệu Trị sau này) được lệnh lập phủ riêng. Ông được lệnh lập phủ ở phía trái kinh thành để tiện việc phụng hầu. Vương vốn tinh thông mọi sách, nổi danh về thơ, càng giỏi về ứng chế. Năm 1842, Vương hộ giá vua Thiệu Trị ra bắc nhận lễ tuyên phong; năm 1865, Vương đổi làm Tả Tôn Chính, rồi được phong Thọ Xuân Quận Vương năm 1874 và đổi thành Thọ Xuân Vương năm 1878. Vua Tự Đức mất (1883), ông sung Hội đồng phụ chính, làm phụ chính thân thần; sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn (1885), ông nhiếp chính một thời gian cho đến vua Đồng Khánh lên ngôi. Ông mất ngày 10 tháng mười năm Bính Tuất (5/11/1886), thụy là Đoan Kháp. Tác phẩm của ông lúc sinh thời gồm: Minh Mạng cung từ, Tỉnh Minh Ái Phương thi tập…
1. Giai thoại mắng sứ thần nhà Thanh để giữ gìn quốc thể của Miên Định
Sách Đại Nam liệt truyện có chép lại chuyện năm Thiệu Trị thứ hai (1842), vua ngự giá Bắc tuần làm lễ bang giao, Thọ Xuân Vương Miên Định được sung làm Ngự tiền thân thần. Ngày hành lễ, sứ thần nhà Thanh là Bảo Thanh ngồi trên kiệu đi vào cửa Chu Tước. Như thế là phạm nghi thức điển lễ. Các quan văn võ đứng hai bên rất bất bình nhưng không một ai dám lên tiếng, quan đón tiếp cũng không dám ngăn cản. Thấy nhà vua, Quốc thể bị xúc phạm, Thọ Xuân Vương nổi giận, chỉ vào mặt sứ giả Thanh triều đang ngồi trên kiệu thét lớn: “Nghi thức bang giao không cho phép nhà ngươi ngồi trên kiệu đến trước mặt Hoàng đế Đại Nam. Hãy xuống kiệu ngay lập tức”. Sứ Thanh giật mình, xuống kiệu trong sự lúng túng, xấu hổ. Lễ tất, nhà vua mở yến tiệc khoản đãi, sứ nhà Thanh từ chối, xin lui về công quán nghỉ ngơi. Thấy vậy các quan lấy làm lo lắng. Có người tâu: “Lỗi này là do Thọ Xuân Vương đã lớn tiếng với sứ giả”. Vua Thiệu Trị nói: “Nghi thức điển lễ bang giao đã đưa trước cho sứ nhà Thanh xem. Tại sao sứ Thanh lại phạm tất? Nếu Thọ Xuân Vương không biết tự trọng, sợ nước lớn thì Quốc thể Đại Nam còn ra gì? Sứ Thanh là người có học đáng lẽ phải biết điều đó. Cớ sao sai phạm rồi còn giận dỗi từ chối khoản đãi? Người mình mà không biết trọng Quốc thể của mình trách gì người ngoài? Các khanh nên xét cho kỹ”. Sau lễ sắc phong vua ban khen Thọ Xuân Vương. Trở về Huế nhà vua thưởng cho Thọ Xuân Vương một viên ngọc có khắc 4 chữ đặc dị quyến bưu (sủng ái đặc biệt).
2. Về phủ thờ và bài thơ trong Tỉnh minh Ái Phương thi tập
Phủ Thọ Xuân Vương hiện tọa lạc tại số 209 đường Chi Lăng, phường Phú Cát, thành phố Huế. Phủ được dựng năm 1823, sau cải tạo làm nhà thờ, quy mô khá lớn, ba gian hai chái dài 20m, rộng 15m trong khuôn viên khoảng 20.000m2, nhưng đã sụp đổ hẳn năm 1968 vì bom đạn; đến năm 1991, con cháu dựng vật liệu cũ làm lại tiền đường và chính đường nhỏ ba gian dài 10m, rộng 5m, kiểu cách hiện đại. Phía trước nhà thờ có tấm bia đá khắc bài văn ngự chế của vua Tự Đức tặng ông nhân dịp mừng thọ Vương 70 tuổi với tựa đề “Tứ Thọ Xuân Vương thất thập thọ tự tịnh ca”.
Kiến trúc cũ chỉ còn duy nhất cổng tam quan kiểu cổ lâu ba cửa vòm, xây gạch trát vôi. Phía trước mặt cổng có hàng chữ ngang đề: Thọ Xuân Vương từ môn - Cổng nhà thờ Thọ Xuân Vương) và 2 cặp đối bằng chữ Hán trên trụ biểu. Hai câu đối như sau: cặp thứ nhất: “Dữ tộc đồng hưu, tình điện báo quốc/ Hà thiên tích hựu, phúc mãn diên niên” - Vui cùng dòng tộc, vì nước ra sức gìn giữ/ Ơn trời ban che, phúc mãi đời đời. Cặp thứ hai: “Thị thần nhất đẳng trung cần, danh thắng vạn cổ/ Đế tử tứ triều lịch sự, lộc trọng thiên chung” - Bề tôi trung cần bậc nhất, danh thắng nghìn xưa/ Con vua trải qua bốn triều, hưởng lộc dồi dào.
3. Về Tỉnh Minh Ái Phương thi tập của Miên Định
Theo Thông báo Hán Nôm của TS. Trần Trọng Dương, Khảo sát tình hình văn bản tác phẩm một số tác gia hoàng tộc triều Nguyễn (TBHNH 2009), Viện Hán Nôm có đoạn: “Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành khảo sát văn bản của một số tác gia hoàng tộc triều Nguyễn mà từ trước đến nay ít người biết đến, gồm 18 tác giả. Đó là những người có thi tập, có thể đứng riêng thành một tác giả lớn, cũng có thể đó là tác giả chỉ còn để lại một số bài thơ được chép trong một số tuyển thơ. Còn các tác gia nổi tiếng có ít nhiều tác phẩm đã được dịch chú và đã được nghiên cứu như Miên Thẩm, Miên Trinh, Mai Am, Huệ Phố, Minh Mệnh, Tự Đức thì chúng tôi xin được để lại trong một dịp khác.
Trong số 18 tác giả, có 12 tác giả có thi tập, văn tập và trứ tác riêng, bao gồm: Miên Định, Miên Bửu, Miên Bật, Miên Cư, Miên Ngung, Miên Thanh, Hường Vịnh, Hường Sâm, Hường Y, Miên Tuấn, Ưng Phúc, tổng cộng có 16 tập thơ văn. Tuy nhiên, theo sự tra cứu của chúng tôi (qua [1], [10], [11]), đa số văn bản của các tác phẩm này đã thất truyền, đó là các tập: Minh Mệnh cung từ, Minh Tĩnh ái phương thi tập, Hân nhiên thi tập, Duân Đình thi thảo, Cống thảo viên thi, Di hiên, Hỷ mặc, Trúc Lâm, Đạo nam, Bồ Sơn. Duy có Duân Đình thi thảo của Miên Thanh còn một phần, được chép trong cuốn Đào Trang tập của Hường Vịnh mang tên Duân Đình thi thảo trích lục.”
Theo nhà Nghiên cứu Trần Đại Vinh, vào năm 1984, ông đã từng đến nhà thờ này và lúc đó phủ thờ Thọ Xuân Vương vẫn còn lưu giữ tập “Tỉnh Minh Ái Phương thi tập” đang tình trạng mục nát. Hiện nay, tập thơ này đã không còn.
![]() |
Cổng tam quan - kiến trúc cổ duy nhất còn lại của phủ thờ |
![]() |
Bài thơ “Hữu đề Ái Phương viên” được viết bằng chữ Hán treo đối diện điện thờ |
Tuy nhiên tại hệ thống Hoành phi, đối liễn tại phủ thờ, ngoài bức hoành Thọ Xuân Vương từ (Phủ thờ Thọ Xuân Vương) treo chính giữa điện thờ. Chúng tôi phát hiện một bức treo đối diện có tựa đề Hữu đề Ái Phương viên (Đề vườn Ái Phương) bằng chữ Hán. Theo nội dung được dịch từ Bức hoành phi này, chúng tôi xác định đây chính là bài thơ còn lại duy nhất trong tập thơ Tỉnh Minh Ái Phương thi tập. Bài thơ như sau:
Nguyên văn:
東池閱厯几芳春
雅愛風光不厭陳
未忍蓁蕪堙舊勝
翻教整葺闡前因
桃紅柳綠毋多麗
陋屋茅薝有可人
幾幅花田逢雨後
一般眞趣入眸新
(右題愛芳園)
Phiên âm:
Đông trì duyệt lịch kỷ phương xuân
Nhã Ái phong quang bất yêm trần
Vị nhẫn trăn vu nhân cựu thán
Phiên giao chỉnh tập xiển tiền nhân
Đào hồng liễu lục vô đa lệ
Lậu ốc mao chiêm hữu khả nhân
Kỉ bức hoa điền phùng vũ hậu
Nhất ban chân thú nhập mâu tân
Dịch nghĩa:
Đông Trì(1) đã trải qua mấy độ xuân;
Mà phong cảnh vườn Ái Phương(2) vẫn tĩnh lặng xưa cũ.
Không nỡ để cho thắng cảnh cũ trở nên mai một,
Cho nên chỉnh đốn, sửa sang để hiển dương công đức của tiền nhân.
Cây Đào Hồng, cây Liễu xanh tuy không đẹp lắm,
Nhưng gian nhà tranh đơn sơ cũng đủ để làm vui lòng người.
Mấy thửa ruộng hoa sau cơn mưa rào,
Tất cả đều trở thành một thú vui tao nhã và chân thật.
Dịch theo nguyên thể:
Đông Trì đã qua độ mấy xuân;
Nhã Ái vườn xưa lắng bụi trần.
Chớ để cảnh xưa nên tàn tích;
Chỉnh đốn, sửa sang tỏ tiền nhân.
Đào hồng, liễu rũ tuy chưa đẹp;
Chỉ mỗi ngẩn ngơ gian liều gần.
Mấy thửa ruộng hoa vừa điểm lệ;
Cũng là chân thú bậc tao nhân.
Bài thơ Hữu đề Ái Phương viên nằm trong tác phẩm Tỉnh Minh Ái Phương thi tập của Thọ Xuân Vương, một trong những áng thơ còn sót lại trong tập thơ của ông, nội dung bài thơ mang đậm thể tài điền viên sơn thủy có hơi hướng thiền thi. Thiết nghĩ, đây là một tư liệu quý còn sót lại của ông hoàng nổi tiếng Thọ Xuân Vương cần được giới thiệu đến công chúng để chúng ta hiểu hơn và quý trọng những giá trị di sản văn hóa của tiền nhân để lại.
N.V.C
(SHSDB27/12-2017)
....................................
(1) Đông Trì: tên địa danh thời nhà Nguyễn, hiện nay ở địa phận phường Phú Cát, thành phố Huế.
(2) Nhã Ái: tức vườn Ái Phương. Có thể trước khi ngôi phủ được trùng tu lại, nơi đây đã từng tồn tại một danh thắng vườn Ái Phương.
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!