Phạm Quyên Chi là một tác giả trẻ đang sống tại thành phố Quy Nhơn, mới đến lần đầu với Tạp chí Sông Hương. Trong những sáng tác đầu tay, Phạm Quyên Chi từng bộc bạch: “Tôi là một đứa con gái thích tưởng tượng. Dường như những tứ thơ của tôi đã hình thành nên trong những “khoảnh khắc của tưởng tượng” như thế. Tôi cũng không hiểu được chính mình, chỉ có thơ là hiểu tôi…”.
Đọc thơ Chi cứ như đang nghe thấy những tiếng va đập của ngôn ngữ và ý tưởng, nhưng nó không phải là những âm thanh “loạn xạ”, đó là sự cộng hưởng từ một trái tim nhạy cảm và một trí tưởng săm soi nhiều góc cạnh. “Con đường thơ” của cô gái trẻ này vẫn còn dài, và giờ đây chúng ta có đủ cơ sở để hy vọng và chờ đợi.
Nguyễn Thanh Xuân (gt)
PHẠM QUYÊN CHI
Tôi và thành phố
Tôi chưa bao giờ thấy ai phơi tóc vào buổi chiều
Ông già không đi giày và không mặc áo đi xuyên ngang phía sau lưng tường
Ngày đầu tiên giáp mặt thành phố
Con nhện vàng nhả giọt độc cuối cùng trên nóc cây
Tôi chưa bao giờ đi tìm cái so sánh trên đôi chân nhám mốc
Mặn đen mùi nước biển
Ngã ba đường cũng chẳng nhớ có khi nào sững lại
Sự thay đổi lớn nọ làm đổi lệch ba phần mặt trời
Đi nhanh quá nổi giông trên các ngọn tóc
Đó là vào một ngày tồi tệ
Còn bảy phút nữa mới đủ tròn cơn mộng
Tôi bắt đầu hốt hoảng
Kẻ thù nghịch toàn màu trắng sữa bột, các nhánh cây gầy guộc
Như người chị chưa xỏ đủ hai ống quần
Rượt nhốt đủ ngôn ngữ
Và thế đó
Không ai biết mộ mình sẽ đặt đâu khi chưa chết với một nắm tiền thầy cúng
Buổi sáng nhả hạt ngọc xanh thẳm
Nó đứng dậy bò đi rồi ngã xuống
Lời cáo buộc oan ức cho cô gái vì mang giấc mơ treo vào gót gió
Tôi đã nghĩ tới việc rời thành phố
Ngay lúc này
Bởi từ đó…
Tôi đã biết yêu hơn hàng cây xanh
Trong đó có bàn tay và những đốt đã chai lì
Hạnh phúc thật chỉ là lúc đứng sau gương rồi ráng ngước nhìn mình…
Thuở nhỏ nhảy dây thấy bầu trời là tất cả
Đàn én lượn là ước mơ vời vợi
Lớn lên rồi xót những điều đi ngang…
Đói,
Là khi buồn, nhớ dáng bà gầy đi trong chốc lát
Như là bí mật thật không thể nào tìm ra
Tại sao người ta ghép thân thể mình với giấy vụn
Rồi mang treo đốt phát pháo rần trời…
Tội lỗi,
Như nỗi buồn ngồi im lặng cả buổi chiều rót cho đầy nụ cười…
Bởi từ đó
Mới học cách đứng lên
Xâu lại sợi dây, gút chặt vụn sắt mục
Tìm những điều thật bình thường
Lớn lên
Rồi vào đời…
Rồi từ đó, khản tiếng vì số phận
Bởi từ đó
Thật sự đã lớn lên!
Những liên tưởng trong đêm
Trên cánh đồng
sợi dây diều tách làm hai
một phía bay đi hơi dài
phía còn lại bỗng rơi
Trên cánh đồng
đàn trâu không cày
chai nước vẫn còn
chiếc áo phồng thoảng quật lật trên bãi cỏ...
Trên cánh đồng
trời nắng và ba con cò lép không ngẩng đầu, lo sợ về điều gì?
có một trổ nước cũng còn chảy chậm
Trên cánh đồng
hỏi nhau về những điều đã mất
bụi tre mãi rụng lá
đôi dép còn gần nhau
Trên cánh đồng
sau những mùa đau chồng chất
tôi đi tìm mẹ trong bốn mùa ký ức
ngày mà lạc nhau giữa làn tóc rối bù đẫm mồ hôi
là vì mệt quá
là vì dù có bứt trăm ngàn cọng tóc
là vì có hóa thành rồng tiên
là vì cũng không trở lại được ngày giếng nước còn xanh
Trên cánh đồng ấy
đâu đó có chiếc áo phồng bay lên trên ngọn lúa vẫn còn chưa thức giấc
một giấc mơ ra đi, để chứng minh, nó đúng là sự thật
Trên cánh đồng có gió
tôi đã thử bay đi tìm mẹ
phía trên là bầu trời
bên dưới là mặt đất!
(SH314/04-15)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.