HOÀNG VŨ THUẬT
Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật - Ảnh: nhavan.vn
Đang trôi đi
Đang trôi tất cả, tất cả đang trôi
Không gì nằm yên, không gì chờ đợi
Quả chớm mùa, con đường chưa tới
Đang trôi đi phía trước chúng ta
Sao lòng em đôi ngả cách chia
Vừa trẻ dại lại vừa rắn rỏi
Nửa ngọt ngào, nửa thì nông nổi
Nửa mơ hồ, nửa thực đến chua cay
Cám ơn người dù nghiêng ngửa chân mây
Cuộc săn đuổi dễ dàng chi xích lại
Ta từng chôn giữa bốn bức tường chật chội
Chết ngạt với đời, chết ngạt bởi tình yêu
Đang trôi đi chút nắng nhạt ban chiều
Ánh sáng vì sao xanh sau sáu mươi tám vạn năm bùng nổ
Đủ làm ta trân trọng biết bao nhiêu
Em đừng oán, đừng thương, đừng xấu hổ
Cho tới khi ta đã trên bờ
Có nghĩa là ta đứng yên ở đó
Thì đau đớn còn lớn hơn tất cả
Lớn hơn những gì phía trước đang trôi.
Những điều lạ
Xe đẩy nối nhau như rồng rắn
Rác rưởi tuôn về thành bãi thành gò
Báo cũ mới, mảnh chai, giày dép
Giấy dầu, vỏ bưởi, lá cây khô
Đầy đủ tất gì gì chẳng thiếu
Chừng như đây - nơi trú ngụ sau cùng
Tấp vào nhau rồi xông lên trời đất
Một thứ men đặc quánh lạ lùng
Tôi cứ nghĩ người ta sắp sửa
Đem chôn sâu xác rữa ngày qua
Thứ cặn bã ở đâu cũng có
Sẽ hóa tro, cát bụi, xa mờ
Nhưng lạ quá, bạn ơi, lạ quá!
Đêm liền đêm ngày lại liền ngày
Từng đoàn người cũng y như thể
Rồng rắn nối nhau qua bãi ngập đầy
Họ cào lên, bới tung lên hết thảy
Phơi trần trong nắng với trong mưa
Nào nhôm, bị đay, giẻ rách
Nào đệm hư, tóc rối, lông gà
Trên vai người chúng trở về chốn cũ
Cũng lao nhanh thoi dệt không bằng
Tôi lại sống với bao điều lạ
Nhựa tái sinh, ly cốc, bao găng...
Đến bất lực nhiều khi tôi cảm nhận
Thân rã tan từng mảnh bên đường
Nhưng bạn ạ, bất lực hơn thế nữa
Nếu phải quay về trong cái xác rỗng không!
Đám cháy và cỏ non
Nhiều khi anh là đám cháy
Chợt bùng lên trên đồng cỏ trưa hè
Con ngựa hồn anh phóng không mệt mỏi
Tung hoành khói bụi say mê
Rồi như trận cuồng phong no sức
Chỉ còn bay mảnh tàn lá cuối cùng
Với ngọn gió lang thang trôi dạt
Để cuối cùng mất hút giữa thinh không
Nhiều khi anh là giọt nước
Lặn trong đất cằn cỗi âm thầm
Và sau đó như lời hẹn ước
Từ đấy mọc lên lá cỏ non
Mưa nắng vần xoay đời không ngưng nghỉ
Cỏ lan nhanh tựa đám - cháy - ngựa - hồng
Sương bãng lãng và mây vàng bãng lãng
Trời cao xanh thật đến ngỡ ngàng
Buồn và vui, rồi tan và hợp
Theo riết anh như thể người tình
Ví bằng phải buộc lòng chọn một
Thì em ơi đâu nữa là anh!
(SH34/12-88)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.