Thơ Sông Hương 08-16

08:53 31/08/2016


Nguyễn An - Thạch Quỳ - Mạc Mạc - Phạm Bá Thịnh - Nguyễn Hoàng Thọ - Nhất Lâm

Ảnh: internet (Minh họa: Nhím)

NGUYỄN AN

Tiếng chim

Thức dậy trước bình minh
Đàn chim luyện giọng bằng những giọt sương tinh khiết.
Bật tia nắng thức tỉnh mặt trời.


Trong những vòm cây, trên vạt cỏ
và giữa những nóc nhà rêu phong đổ vỡ
rộn rã tiếng chim!


Có phải bản hùng ca ngày mới
trước hành trình gió bụi nắng mưa...
và cả những bẫy dính, mũi tên, họng súng...
trước khi bay xuyên tỏa phương trời?


Tôi nghiêng mình trước những cánh chim ngậm mồi về tổ.
Tôi cũng nghiêng mình trước những cánh chim không thể trở về!


Rồi cũng đến lúc đàn chim xen cánh nhau chia lời từ biệt.
Kéo tấm chăn màu xám, ru ngủ mặt trời.


Chỉ còn lại những ngôi sao thao thức.
Bầu trời đêm
ủ nắng
đợi bình minh.




THẠCH QUỲ

Cơn bão ngoài xa

Ngủ đi! Ngủ đi hai mắt
Đêm đang rầm rì
Cơn bão ngoài xa


Chiến tranh qua lâu rồi
Cây xanh bên đường
Hoa nở bên hiên


Ngủ đi! Ngủ đi!
Mỗi người một số phận
Cái nhớ thì đã nhớ
Cái quên thì đã quên…


Đêm nay
Cơn bão ngoài xa
Tiếp tục rì rầm trong đêm
Tiếp tục nhức nhối trong cơ bắp
Nơi mảnh đạn còn găm trong thịt da


Ngủ đi! Ngủ đi!
Cắn chặt vành môi chịu đựng cơn đau
Những người thương binh
Không ngủ
Tiếp tục thôi, mình tự dặn mình…


Đêm bình yên, người người đã ngủ
Cơn bão ngoài xa tiếp tục rì rầm
Nửa thế kỷ đi qua
Những mảnh đạn tiếp tục cắn xé
Như cơn bão trong đêm tiếp tục quay cuồng trong thân thể các anh…




MẠC MẠC

Mận gai xanh

Trên luống cày đã cũ
Con chuồn chuồn vắt lại lời yêu
Câu thơ thêu trên sợi chỉ
Có một ngày chỉ lợt màu… em sẽ đứt
giống như tôi


Trên trời mọc thêm vì sao Đôi
Mọc từ khi bông hồng vàng vườn tôi
bị trộm mất
Mọc từ khi hai con mắt hoắm khô
dòng sự thật
Bao đường băng chính phụ song hành


Trên trời mọc thêm bụi mận gai xanh
Giọng hót hồi sinh khi tôi lao mình vào đó
Chuồn chuồn sao hiểu được chiếc gai
nơi vòm ngực đỏ
Ôi! Kiếp côn trùng đêm mê
trong mình có máu
ước một lần lên màu cho bức tranh yêu




PHẠM BÁ THỊNH

Đò sông Hương

Thương con đò
Ngày mở cõi
Chở điệu buồn
Câu hát Lý Hoài Nam.


Nhớ con đò
Cuối năm làng cổ
Chở sắc Xuân về

Lấp lóa đáy sông xanh.

Yêu con đò
Sớm chiều sang lớp
Em qua về
Thừa Phủ trắng lòng sông


Con đò về mô
Tóc dài ngơ ngác
Chấp chới bờ
Nón lá giận nghiêng xô


Con đò về mô
Nhớ hoài rời rã
Sông Hương buồn
Lặng lẽ bóng mây xa...




NGUYỄN HOÀNG THỌ

Tiễn em
          Gửi theo H….

Thế là
gió đẩy cuộc hành trình về phía khác
yến tiệc trần gian khép lại buổi chiều tàn
số phận vẽ lại chân dung
em vẫy tay chào hữu hạn


Em bắt đầu cuộc viễn du mới
không hát cuồng ca vỗ mặt đời
không mang theo hành trang
kể cả xác thân phù phiếm


Nơi em đến
không có mưa mai, nắng chiều, lửa và nước…
không có họa, cần chi mơ cõi phúc
nghe hư vô thánh thiện đến vô cùng


Người tiễn em quay về chốn tạm
gửi theo gió tiếng chim chiều biền biệt
gửi ngàn mây năm tháng phù du
gửi theo NGƯỜI giọt nước mắt thiên thu


Em đi
ta làm thân cô lẻ
gió bên này
buốt lạnh phía bên kia




NHẤT LÂM

Mộ cá

Dân biển đi chôn cá
Trên cát trắng mênh mang
Nỗi buồn biển gặp nạn
Nước mắt đau cát làng


Nào cá mẹ cá con
Cá ông cùng cá cháu
Cá vợ chết cá chồng
Chung mộ cát trắng lòng


Biển đời đau cùng tận
Làng ơi buồn mênh mông
Dân ngồi nhìn lưới cụ
Tàu nằm nhớ biển đông


Có cụ già trước biển
Nước mắt rơi trong chiều
Râu tóc nhuốm vị mặn
Sóng vỗ bờ hoang liêu

            Cửa Việt, 5/2016


(TCSH330/08-2016)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.