Thơ Sông Hương 05-15

15:15 29/05/2015

Đông Triều - Nguyễn Đông Nhật - Nhất Lâm - Nguyễn Tấn Tuấn - Triệu Nguyên Phong

"Nốt nhạc chiều" - Ảnh: Trần Hướng (Hà Tĩnh)

ĐÔNG TRIỀU

Thành phố và những ô cửa trống

Thành phố
là buổi ngày đánh võng đôi bàn chân lại lên đồi lại xuống suối
là buổi đêm ngồi nghe gió nói lạnh thưa rồi
không có quá nhiều tiếng đuổi nhau trong đời sống tìm mồi
như nơi anh ở, như nơi em mơ những ngày bình yên sấm vỗ


dưới bóng lòng hồ còn in tiếng thở lay rừng hoa nở
thành phố di cư những tiềm thức mạng nhện xe, đặc dụng cao ốc,
hơi người...
em quá yêu thương dù lửa nắng, mưa trắng và lạnh băng xuống
sườn đồi
chưa lúc nào buồn nâng trên tay loang theo từng ngày như khối núi
thành phố và em vẫn hỏi đến bao giờ anh cô đơn?


Có quá nhiều ô cửa trống và trơn
trôi ánh nhìn quên đường về của suy tưởng
tình yêu múa may bắt đầu một lộ trình xác rỗng
có tiếng vói lên thinh không những tên người lồng lộng
từ ô cửa một cành hồng đã bật thêm lá nhoài ra...


trước ngày về và trước một tiếng ca
trong ô cửa trống có hoang mang từng bước nhảy
trong ô cửa trống chưa kịp kéo rèm lại
chảy xuống phố này hoa nở dọc đường đi
chảy xuống phố này chiều lạnh mắt chia ly


Anh cũng không biết để làm gì
những ám tượng đó gửi vào lòng thư cho em
từ nơi anh ở...




NGUYỄN ĐÔNG NHẬT

Thái độ

I.
cũng đành nói một điều gì đó.
cũng đành hát một bài vui hay buồn.


đứng trước tấm gương, nhìn và phải thấy
khuôn mặt người trên vách tường câm.


II.
đôi mắt nhìn thẳng
không cần mang kính.


nghe hết mọi điều
nói điều im lặng.


III.
cuộc đời
có lẽ là một giọt nước
chỉ nhận ra mình
khi bị hút vào cát phỏng.




NHẤT LÂM

Trăng báo hiếu

Trăng trong mùa báo hiếu
Sáng viên mãn đêm xanh
Em trong mùa báo hiếu
Đạo hạnh thơm hương lành


Anh thức tròn đêm hạ
Trăng vàng chảy mùa rằm
Tiếng chuông chùa lan tỏa
Người khổ đau vợi dần


Trăng sáng còn hơn gương
Chiếu vàng mùa lúa trổ
Con sông dài dát lụa
Chảy thanh tịnh miền quê


Có đi qua cơn mê
Mới thành người đốn ngộ
Phật là mẹ ta đó
Con báo hiếu vĩnh hằng.
                  
Huế, 10/8/2014



NGUYỄN TẤN TUẤN

Bâng khuâng chiều đại ngàn

Cơn gió ngang chiều mộng mị
Vạt nắng cuối ngày trốn vào mây khúc xạ vết hoàng hôn
Em địu mùa thu qua bên kia suối
Đường về bản gập ghềnh
Hoa chen đá núi
Thung lũng sương mờ thoảng lạnh bờ vai


Tháng mười một
Đông chớm trở mình, nhớ thu nào phơn phớt nụ Ta vai
Đèo Aco tím thẫm
Em gái Tà ôi gùi hạt lúa lên nương gieo mùa giấc mơ cô Tấm
Có đôi hài vạn dặm
Bàn chân ướm vào chiếc lá cuối thu rơi


Chiều mộng mị ngang đồi, ẩn dụ khúc ầu ơi
Mười sáu tuổi em làm dâu bản lạ
Đêm hội Azakooh, sàn nhà rông ngập ngừng điệu Tung tung za za
(1)
Con còn say giấc trên lưng
Ngân ngấn trăng soi vòng cườm mã não
Suối A roàng say vỗ nhịp cồng chiêng


Chiều đại ngàn
Bất chợt tiếng chim
Bất chợt rừng xanh, ai đánh thức giấc mơ ngàn đời trầm tích?
Vệt nắng loang cuối trời
Hoàng hôn u tịch
Bóng rẫy nghiêng vào gùi, em địu trăng về làng sau buổi lên nương


...........................................
(1) Điệu múa của người Tà Ôi




TRIỆU NGUYÊN PHONG

Tiếng than dài

Ngước nhìn lên
ráng trời cao
Khúc chiều tan nắng
hắt sau vũng sầu
Bâng quơ trôi dạt về đâu?
Mặt trời rát bỏng
gối đầu bóng mây


Dưới chân
rụng trắng sương gầy
Ngậm ngùi giọt nước mắt đầy lo toan
Góc chiều
gối bóng thời gian
Căng ngang sợi gió
tiếng than thở dài


Mang theo khát vọng nửa vời
Nghe trong cánh gió nói lời buồn vui
Một đời mưa nắng trong tôi
Bỏ trần gian lại
bỏ trời đất xa...
          
Viết tại Bệnh viện T.Ư Huế

(SH315/05-15)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.