Sông Hương & Những định ngữ thi ca

14:38 17/10/2008
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

Nguyên xưa, dòng sông này có nhiều tên gọi, trong Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An chép là sông Linh Giang. Theo dòng sử liệu, dòng sông này còn có các tên khác như sông Lô Dung, sông Dinh, sông Kim Trà và sau này mới được đổi thành Hương Giang như ngày nay.
Từ thượng nguồn đến hạ nguồn, sông Hương dài khoảng 100 km. Bắt đầu từ hai nguồn lớn, Tả Trạch và Hữu Trạch hợp với nhau tại ngã ba Bằng Lãng, từ đây với độ dài khoảng 30 km, sông Hương trở nên dịu dàng chảy vào lòng Huế rồi ầm ào ra biển Thuận An. Mang theo những phù sa của thiên nhiên, sông Hương quanh co chảy về biển khơi, tạo nên những làng mạc trù phú hình thành và phát triển từ bao đời nay.
Đoạn sông từ Kim Long đến Vĩ Dạ là điểm nhấn quan trọng và điển hình nhất của vẻ đẹp sông Hương, nhẹ nhàng thanh thoát như một tấm lụa của thiên nhiên. Từ những năm đầu tiên của thế kỷ XIX, khi xây dựng Kinh Thành Huế, các nhà kiến trúc đã chọn sông Hương làm yếu tố minh đường, là một yếu tố không thể thiếu trong quan niệm về thuật phong thủy lúc bấy giờ. Hai bên trước Kinh Thành là Cồn Hến và Cồn Dã Viên được xem là tả Thanh Longhữu Bạch Hổ, tạo nên cái thế vững chãi về tâm linh cho cả cụm kiến trúc Kinh Thành Huế.

Sông dài như kiếm dựng trời xanh
Sông Hương không chỉ là môi sinh lý tưởng của con người, nó còn là một biểu tượng thẩm mỹ của người dân xứ Huế. Sông đã chở trên mình những vỉa phù sa văn hóa, để nối từ thế hệ này sang thế hệ khác từng lớp quặng, cô lắng trong nhiều loại hình nghệ thuật, mà thơ ca là một điển hình.
Nhắc đến sông Hương, người ta nghĩ ngay đến con sông của thi, ca, nhạc, họa. Dòng sông này đã chở biết bao hứng khởi từ những tâm hồn lãng mạn.
Sông Hương với Tiên Điền Nguyễn Du, trong một dịp thu đến(1) thì: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu: Một tấm trăng Hương Giang/ Xưa nay gieo nhiều nỗi buồn.

Những câu thơ tả cảnh rất tinh tế với những phát hiện mà đến bây giờ vẫn còn rất mới về dòng Hương. Nỗi sầu trong câu thơ không là một nỗi sầu cô quạnh, đơn độc, mà đó là cái sầu bi mang tính mỹ học, cái sầu trong cô tĩnh luôn làm trăn trở thi ca. Nhà thơ đau đáu một niềm nhân thế, đau đáu về thời vận, đau đáu về những mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng.

Sông Hương với Chu Thần Cao Bá Quát, trong một Buổi sớm qua sông Hương(2) thì: Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền/ Trường giang như kiếm lập thanh thiên: Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng/ Sông dài như kiếm dựng trời xanh.
Thi sĩ thể hiện hạo khí của kẻ sĩ qua hình ảnh ví von sông dài như kiếm dựng trời xanh, đã làm nên một tượng đài ngôn ngữ muôn đời của dòng Hương. Sông thì như lưỡi kiếm, gió thì như chiếc gối, để thi nhân mơ mòng về nhân thế. Thi nhân Nương trận Nam Phong gối giấc nồng(3) như trước ông mấy thế kỷ, một danh sĩ Việt Nam là Trần Quang Khải từng Đè ngang ngọn gió đọc thơ chơi.
Đó là những hình ảnh đẹp và giàu tâm trạng.
Không gian nghệ thuật của Nguyễn Du và Cao Bá Quát được xác lập trên cơ sở của điểm nhìn, điểm ngắm của chủ thể sáng tạo (so với khách thể thẩm mỹ).

Căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Nguyễn Du là “ở trên bờ”, ở đây, nhãn tự trong bài thơ Thu chí của Nguyễn Du là:
phiến: mảnh, tấm, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều rộng trong không gian, phiếm chỉ sự dàn trải, mênh mông: Hương Giang nhất phiến nguyệt: một tấm trăng Hương Giang. Câu thơ thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: phiến nguyệt - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí vằng vặc (như trăng ở sông Hương).
Cũng
căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Cao Bá Quát là “ở giữa dòng” (trên thuyền), ở đây, nhãn tự trong câu thơ, bài thơ Hiểu quá Hương Giang của Cao Bá Quát là: trường: dài, xa, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều dài trong không gian, phiếm chỉ sự sâu thẳm, tít tắp: Trường giang như kiếm lập thanh thiên: sông dài như kiếm dựng trời xanh. Câu thơ cũng thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: trường giang - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí thăm thẳm (như dòng sông Hương)(4).

Với sông Hương, Cao Bá Quát còn có chùm thơ 10 bài tạp vịnh về Hương Giang(5). Qua những bài thơ này, chúng ta có thể cùng ông du lãm với sông Hương đến các địa danh như Kim Long, Hoàng Thành, Gia Hội, Bao Vinh. Du lãm để suy gẫm về nhân tình thế thái, để ngẫm nghĩ chuyện đời. Ví như:
Nhất đới duyên giang giáp đệ hùng/ Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông/ Vinh khô tứ thập dư niên sự/ Chỉ kiến hà hoa tự cựu hồng: Ven sông lầu gác trập trùng/ Đồn quân, dinh tướng tây đông mấy toà/ Thịnh suy bốn chục năm qua/ Riêng sen vẫn giữ màu hoa đỏ hồng.

Dòng Hương còn là nơi các công trình kiến trúc truyền thống, những di tích cố đô Huế soi bóng và tự kiểm chứng lại mình. Con sông đã xe duyên nối các công trình với nhau thành một thể. Từ thượng nguồn sông Hương là một yếu tố cảnh quan gắn với các lăng tẩm xứ Huế như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, theo dòng chảy về khơi lại tiếp tục gắn với một phức hệ kiến trúc như điện Hòn Chén, Văn Miếu, Võ Miếu, chùa Thiên Mụ... Phóng tầm mắt từ Kỳ Đài, sông Hương lại có một vẻ đẹp mới với một hệ thống công trình bao bọc điểm xuyết: từ Phu Văn Lâu đến Nghinh Lương Đình, từ cầu Trường Tiền đến thảm cây xanh dọc đôi bờ, xa hơn nữa là đỉnh Ngự Bình đã tạo nên một chỉnh thể hài hòa không có cơ hội để cắt xén. Do vậy, sông Hương cùng với núi Ngự, cầu Trường Tiền đã trở thành những biểu tượng tình cảm của Huế.

Trên điện Thái Hòa cũng xuất hiện 5 bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú viết về sông Hương của các vị vua triều Nguyễn với tính chất vịnh cảnh để tỏ chí là một trong những đặc trưng của dòng văn học trung đại. Điển hình như:     
- Giang hà thông chúng thủy/ Bình chướng liệt quần sơn: Hương Giang mạch nước nối dòng/ Ngự Bình tiếp tiếp tầng không chan hòa.
- Trản lãnh lăng hư thú/ Hương giang triệt để thanh: Núi Trản điệp cả màu châu/ Sông Hương in bóng đáy sâu trong lành.
- Hương thủy đà Ngân đới/ Bình sơn kháng ỷ lưu: Sông Hương tiếp dải ngân hà/ Ngự Bình giăng mắc nắng qua lụa mềm v.v.


Trong tác phẩm Thần Kinh nhị thập cảnh(7) viết về 20 danh thắng của cố đô xưa, bài thơ Hương Giang hiểu phiếm(8) của vua Thiệu Trị không chỉ là một bài vịnh cảnh thuần túy. Nhà vua mượn việc tả cảnh để bày tỏ cái chí của mình, qua sông Hương vào buổi sớm, đã thấy trời đông hửng ánh dương. Đó là ánh dương của một triều đại, một bình minh lịch sử mà nhà vua là người đứng đầu của triều đại đó. Bài thơ được khắc trên bia đá đặt bên cạnh Phu Văn Lâu, ngày nay vẫn còn chứng tích: Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành/ Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh (…) Kỷ hồi hà hiết thương lang khúc/ Song khuyết phương thăng thụy nhật minh: Ôm lấy Kinh đô nước uốn dòng/ Thả thuyền ban sớm nhẹ thong dong (…) Bao lâu nào rõ dòng chưa dứt/ Đã thấy trời đông hửng ánh dương.

Nhà thơ Thiệu Trị quan sát thiên nhiên, quan sát sông Hương bằng một trực cảm tinh tế, nắm bắt kịp thời những chi tiết, những hình ảnh mà đôi khi chỉ ngưng tụ trong một khoảnh khắc: Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ/ Sơn hoa do luyến kết vân anh: Cây cối vấn vương sương vẫn đẫm/ Cỏ hoa quyến luyến mây còn ngưng. Chỉ qua những hình ảnh mang tính gợi tả, nhưng vẫn khắc họa rất thành công những nét “sở thuộc” của sông Hương bằng bút pháp tinh tế và tình cảm chan chứa của nhà thơ.
Dòng sông Hương còn là một chứng nhân lịch sử, nó chở trên mình những chuyện vui buồn của thời gian. Trong lịch sử, dòng sông đã chở và chứng kiến biết bao câu chuyện nổi trôi đầy thân phận. Thảo Am Nguyễn Khoa Vy viết: Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời. Nhà thơ Tố Hữu viết: Trên dòng Hương Giang/ Em buông mái chèo…rồi Tình ơi gian dối là tình/ Thuyền em rách nát còn lành được không (Cô gái sông Hương). Đó là những cái nhìn nhân văn đầy cảm thông trước những phận gái giang hồ một thuở nào.

Ngay từ thời quân chủ, thân phận ấy cũng được bày ra trong những cảm thông xa xót của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ, dù sử dụng bút pháp hoạt kê, trào phúng nhưng bài thơ không vì vậy mà kém phần nhân văn. Thử xem: Trên sông một chiếc thuyền lan(9)/ Một cô gái Huế một quan đại thần/
Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lại tần mần như ma/ Ban ngày quan lớn như cha/ Ban đêm quan lại rầy rà như con. (10)
Sông Hương như thể chiếc gương góa chồng
Cảm hứng về dòng sông Hương vẫn còn chảy mãi đến tận nhiều đời tiếp nối. Theo những chuyến đò dọc, đò ngang, sông Hương cũng đã làm nên những điệu dân ca còn lưu truyền mãi. Hò mái nhì, mái đẩy cùng một số làn điệu khác là những điển hình cho điệu hò sinh thành trên sông nước. Và rất nhiều khúc ca, bản nhạc, tác phẩm mỹ thuật hình thành trên cảm hứng về dòng sông này.

Nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao đã từng du lãm với mùa thu sông Hương bằng Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, để khi xa rồi, thi nhân cứ day dứt mãi và cuối cùng phải buột lên rằng: Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh.
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

Sông Hương với những khoảnh khắc của thời gian, với những quãng ngắt của không gian, luôn có thể tác động lên những tâm hồn lãng mạn. Ai từng sống với dòng sông này, luôn có thể bất chợt phát hiện ra rằng, sông Hương mỗi ngày thêm mỗi mới. Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa/ Có thể mây cao, có thể nắng vàng trong bài thơ Chiều Hương Giang của Nguyễn Khoa Điềm là những khoảnh khắc về thời gian và quãng ngắt về không gian nghệ thuật làm nền cảm hứng của thi sĩ. Khoảnh khắc nhưng chiều nay vô tình trong nắng muộn/ Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang là những phát hiện rất mới của thi sĩ.

Sông Hương vốn được biết bao ngôn từ dùng để ví von nhằm khắc họa hết tất cả những cái duyên ngầm và thi vị của nó, như đó là Điệu slow tình cảm; đó là người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya, như đó là tấm lụa mềm vắt ngang thành phố với những lời ru vỗ du dương dành cho nó.
Với nhà thơ Thu Bồn, thì sông Hương là một hiện thực tâm hồn, nhà thơ viết: Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Phát hiện mới mẻ này đã làm bàng hoàng cả một diễn trình mỹ từ dành cho sông Hương. Đây là một phát hiện tinh tế, và tinh tế hơn khi thi sĩ đã nhận thức rất rõ rằng: sông Hương đã góp phần làm nên văn hóa Huế, Huế rất sâu là Huế của những tầng vỉa văn hóa truyền thống. Nhà thơ tạm biệt Huế, tạm biệt dòng Hương để ngẩn ngơ, lưu luyến đến nỗi đã hóa đá phía bên kia của ngọn Hải Vân hùng vĩ. Em trong bài thơ cũng chính là dòng Hương cùng tác giả tình tự.
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
(Tạm biệt)

Mỗi một nhà thơ đều có một cách bày tỏ xúc cảm trước dòng Hương Giang trữ tình. Nhà thơ Huy Tập đã giả định rằng, nếu như chẳng có sông Hương, thì không biết: gửi tình cho Huế, gửi thương nơi nào? Và cuối cùng là Nếu như chẳng có dòng Hương/ Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Nhà thơ xem dòng sông này là duyên cớ của những tứ thơ về Huế và do vậy sông Hương đã trở thành nỗi đam mê của thi nhân, trở thành duyên cớ gửi trao tình cảm.
Nguyễn Xuân Sanh lại có một định ngữ khác: Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo/ Con đò: con mắt của sông Hương. Đến Huế, đến với sông Hương, thi sĩ nhận ra rằng, những con đò là hình ảnh gắn kết dòng sông này để làm nên tứ thơ: con đò - con mắt. Đó cũng là một định ngữ chính xác về không gian của sông Hương. Lại giả định rằng, nếu trên dòng sông này thiếu vắng những con đò thì ra sao nhỉ?
Ôi con đò con mắt yêu thương
Nhìn chúng ta say đắm lạ thường
Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo:
Con đò: con mắt của sông Hương!

Riêng với sông Hương,
Trương Nam Hương lại có một định ngữ khác về dòng sông này: Hương Giang như thể chiếc gương góa chồng. Bài thơ thể hiện nỗi niềm thế sự được trình bày, hóa giải với sông Hương bằng một cái tôi trữ tình, cái tôi đối thoại với dòng sông.
Bao nhiêu hưng phế, thịnh suy không ai lường hết được, đó là quy luật. Nhà thơ hoài niệm về quá khứ, liên hệ với hiện tại để thức nhận rằng:
Khói sương dâu bể toan cầm
Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay
Chẳng hòa tan được rủi may
Huế cho không cả ly đầy… bóng vua
.
(Riêng với sông Hương)
 Khó có thể kể hết tất cả những hình ảnh đẹp đã trở thành định ngữ về dòng sông Hương trong lịch sử thi ca.

Bởi lẽ, mỗi một nhà thơ, khi đến với dòng sông này đều bị mê hoặc với sự huyền ảo của không gian tương tác giữa toàn bộ khách thể thẩm mỹ và chủ thể nhận thức. Đó là chiếc cầu nối đồng hiện của hai chiều hiện thực và tâm hồn.
Bởi lẽ, sông Hương tự bao đời như đã là di sản của tâm linh, của hiện thực đời sống Huế.
Êm đềm theo thời gian, sông Hương đã cuộn lên một dòng chảy văn hóa đầy sức sống.
             H.T

(nguồn: TCSH số 220 - 06 - 2007)

 




------------------------------
 (1) 
Dịch từ nhan đề một bài thơ của Nguyễn Du (Thu chí)
(2) Dịch từ nhan đề một bài thơ của Cao Bá Quát (Hiểu quá Hương Giang)
(3) Nguyên văn: Phả ái nam phong giác chẩm biên.

(4) Cũng có quan điểm cho rằng, nhãn tự của bài thơ này là (kiếm), nhưng bản chất của tứ thơ được xác lập ngay từ đầu là trường giang (sông dài), cái “sự dài” đã trở thành đường dẫn để bắt đầu, cái “sự dài” tác động trực tiếp để có hình ảnh gián tiếp mang tính so sánh, định dạng là kiếm. Do vậy, chữ trường phải hiểu là nhãn tự, có tính quyết định, chi phối, nó làm ám ảnh thi nhân và làm nảy sinh tứ thơ.
(5) Hương Giang tạp vịnh.
(6) Nguyên văn: Giải đảo đông phong, phú nhất thi: Đè ngược ngọn gió đông mà ngâm một bài thơ.
(7)
Thần Kinh nhị thập cảnh: Hai mươi cảnh đất Thần Kinh.
(8)
Hương Giang hiểu phiếm: Buổi sớm du thuyền trên sông Hương
(9) Thuyền lan: có bản chép là thuyền nan.
(10)
Như con: có bản chép là hơn con. Bài này không có đầu đề, phần chữ Nôm do chúng tôi lập vì không có bản gốc.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.