Sông Hương & Những định ngữ thi ca

14:38 17/10/2008
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

Nguyên xưa, dòng sông này có nhiều tên gọi, trong Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An chép là sông Linh Giang. Theo dòng sử liệu, dòng sông này còn có các tên khác như sông Lô Dung, sông Dinh, sông Kim Trà và sau này mới được đổi thành Hương Giang như ngày nay.
Từ thượng nguồn đến hạ nguồn, sông Hương dài khoảng 100 km. Bắt đầu từ hai nguồn lớn, Tả Trạch và Hữu Trạch hợp với nhau tại ngã ba Bằng Lãng, từ đây với độ dài khoảng 30 km, sông Hương trở nên dịu dàng chảy vào lòng Huế rồi ầm ào ra biển Thuận An. Mang theo những phù sa của thiên nhiên, sông Hương quanh co chảy về biển khơi, tạo nên những làng mạc trù phú hình thành và phát triển từ bao đời nay.
Đoạn sông từ Kim Long đến Vĩ Dạ là điểm nhấn quan trọng và điển hình nhất của vẻ đẹp sông Hương, nhẹ nhàng thanh thoát như một tấm lụa của thiên nhiên. Từ những năm đầu tiên của thế kỷ XIX, khi xây dựng Kinh Thành Huế, các nhà kiến trúc đã chọn sông Hương làm yếu tố minh đường, là một yếu tố không thể thiếu trong quan niệm về thuật phong thủy lúc bấy giờ. Hai bên trước Kinh Thành là Cồn Hến và Cồn Dã Viên được xem là tả Thanh Longhữu Bạch Hổ, tạo nên cái thế vững chãi về tâm linh cho cả cụm kiến trúc Kinh Thành Huế.

Sông dài như kiếm dựng trời xanh
Sông Hương không chỉ là môi sinh lý tưởng của con người, nó còn là một biểu tượng thẩm mỹ của người dân xứ Huế. Sông đã chở trên mình những vỉa phù sa văn hóa, để nối từ thế hệ này sang thế hệ khác từng lớp quặng, cô lắng trong nhiều loại hình nghệ thuật, mà thơ ca là một điển hình.
Nhắc đến sông Hương, người ta nghĩ ngay đến con sông của thi, ca, nhạc, họa. Dòng sông này đã chở biết bao hứng khởi từ những tâm hồn lãng mạn.
Sông Hương với Tiên Điền Nguyễn Du, trong một dịp thu đến(1) thì: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu: Một tấm trăng Hương Giang/ Xưa nay gieo nhiều nỗi buồn.

Những câu thơ tả cảnh rất tinh tế với những phát hiện mà đến bây giờ vẫn còn rất mới về dòng Hương. Nỗi sầu trong câu thơ không là một nỗi sầu cô quạnh, đơn độc, mà đó là cái sầu bi mang tính mỹ học, cái sầu trong cô tĩnh luôn làm trăn trở thi ca. Nhà thơ đau đáu một niềm nhân thế, đau đáu về thời vận, đau đáu về những mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng.

Sông Hương với Chu Thần Cao Bá Quát, trong một Buổi sớm qua sông Hương(2) thì: Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền/ Trường giang như kiếm lập thanh thiên: Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng/ Sông dài như kiếm dựng trời xanh.
Thi sĩ thể hiện hạo khí của kẻ sĩ qua hình ảnh ví von sông dài như kiếm dựng trời xanh, đã làm nên một tượng đài ngôn ngữ muôn đời của dòng Hương. Sông thì như lưỡi kiếm, gió thì như chiếc gối, để thi nhân mơ mòng về nhân thế. Thi nhân Nương trận Nam Phong gối giấc nồng(3) như trước ông mấy thế kỷ, một danh sĩ Việt Nam là Trần Quang Khải từng Đè ngang ngọn gió đọc thơ chơi.
Đó là những hình ảnh đẹp và giàu tâm trạng.
Không gian nghệ thuật của Nguyễn Du và Cao Bá Quát được xác lập trên cơ sở của điểm nhìn, điểm ngắm của chủ thể sáng tạo (so với khách thể thẩm mỹ).

Căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Nguyễn Du là “ở trên bờ”, ở đây, nhãn tự trong bài thơ Thu chí của Nguyễn Du là:
phiến: mảnh, tấm, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều rộng trong không gian, phiếm chỉ sự dàn trải, mênh mông: Hương Giang nhất phiến nguyệt: một tấm trăng Hương Giang. Câu thơ thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: phiến nguyệt - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí vằng vặc (như trăng ở sông Hương).
Cũng
căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Cao Bá Quát là “ở giữa dòng” (trên thuyền), ở đây, nhãn tự trong câu thơ, bài thơ Hiểu quá Hương Giang của Cao Bá Quát là: trường: dài, xa, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều dài trong không gian, phiếm chỉ sự sâu thẳm, tít tắp: Trường giang như kiếm lập thanh thiên: sông dài như kiếm dựng trời xanh. Câu thơ cũng thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: trường giang - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí thăm thẳm (như dòng sông Hương)(4).

Với sông Hương, Cao Bá Quát còn có chùm thơ 10 bài tạp vịnh về Hương Giang(5). Qua những bài thơ này, chúng ta có thể cùng ông du lãm với sông Hương đến các địa danh như Kim Long, Hoàng Thành, Gia Hội, Bao Vinh. Du lãm để suy gẫm về nhân tình thế thái, để ngẫm nghĩ chuyện đời. Ví như:
Nhất đới duyên giang giáp đệ hùng/ Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông/ Vinh khô tứ thập dư niên sự/ Chỉ kiến hà hoa tự cựu hồng: Ven sông lầu gác trập trùng/ Đồn quân, dinh tướng tây đông mấy toà/ Thịnh suy bốn chục năm qua/ Riêng sen vẫn giữ màu hoa đỏ hồng.

Dòng Hương còn là nơi các công trình kiến trúc truyền thống, những di tích cố đô Huế soi bóng và tự kiểm chứng lại mình. Con sông đã xe duyên nối các công trình với nhau thành một thể. Từ thượng nguồn sông Hương là một yếu tố cảnh quan gắn với các lăng tẩm xứ Huế như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, theo dòng chảy về khơi lại tiếp tục gắn với một phức hệ kiến trúc như điện Hòn Chén, Văn Miếu, Võ Miếu, chùa Thiên Mụ... Phóng tầm mắt từ Kỳ Đài, sông Hương lại có một vẻ đẹp mới với một hệ thống công trình bao bọc điểm xuyết: từ Phu Văn Lâu đến Nghinh Lương Đình, từ cầu Trường Tiền đến thảm cây xanh dọc đôi bờ, xa hơn nữa là đỉnh Ngự Bình đã tạo nên một chỉnh thể hài hòa không có cơ hội để cắt xén. Do vậy, sông Hương cùng với núi Ngự, cầu Trường Tiền đã trở thành những biểu tượng tình cảm của Huế.

Trên điện Thái Hòa cũng xuất hiện 5 bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú viết về sông Hương của các vị vua triều Nguyễn với tính chất vịnh cảnh để tỏ chí là một trong những đặc trưng của dòng văn học trung đại. Điển hình như:     
- Giang hà thông chúng thủy/ Bình chướng liệt quần sơn: Hương Giang mạch nước nối dòng/ Ngự Bình tiếp tiếp tầng không chan hòa.
- Trản lãnh lăng hư thú/ Hương giang triệt để thanh: Núi Trản điệp cả màu châu/ Sông Hương in bóng đáy sâu trong lành.
- Hương thủy đà Ngân đới/ Bình sơn kháng ỷ lưu: Sông Hương tiếp dải ngân hà/ Ngự Bình giăng mắc nắng qua lụa mềm v.v.


Trong tác phẩm Thần Kinh nhị thập cảnh(7) viết về 20 danh thắng của cố đô xưa, bài thơ Hương Giang hiểu phiếm(8) của vua Thiệu Trị không chỉ là một bài vịnh cảnh thuần túy. Nhà vua mượn việc tả cảnh để bày tỏ cái chí của mình, qua sông Hương vào buổi sớm, đã thấy trời đông hửng ánh dương. Đó là ánh dương của một triều đại, một bình minh lịch sử mà nhà vua là người đứng đầu của triều đại đó. Bài thơ được khắc trên bia đá đặt bên cạnh Phu Văn Lâu, ngày nay vẫn còn chứng tích: Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành/ Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh (…) Kỷ hồi hà hiết thương lang khúc/ Song khuyết phương thăng thụy nhật minh: Ôm lấy Kinh đô nước uốn dòng/ Thả thuyền ban sớm nhẹ thong dong (…) Bao lâu nào rõ dòng chưa dứt/ Đã thấy trời đông hửng ánh dương.

Nhà thơ Thiệu Trị quan sát thiên nhiên, quan sát sông Hương bằng một trực cảm tinh tế, nắm bắt kịp thời những chi tiết, những hình ảnh mà đôi khi chỉ ngưng tụ trong một khoảnh khắc: Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ/ Sơn hoa do luyến kết vân anh: Cây cối vấn vương sương vẫn đẫm/ Cỏ hoa quyến luyến mây còn ngưng. Chỉ qua những hình ảnh mang tính gợi tả, nhưng vẫn khắc họa rất thành công những nét “sở thuộc” của sông Hương bằng bút pháp tinh tế và tình cảm chan chứa của nhà thơ.
Dòng sông Hương còn là một chứng nhân lịch sử, nó chở trên mình những chuyện vui buồn của thời gian. Trong lịch sử, dòng sông đã chở và chứng kiến biết bao câu chuyện nổi trôi đầy thân phận. Thảo Am Nguyễn Khoa Vy viết: Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời. Nhà thơ Tố Hữu viết: Trên dòng Hương Giang/ Em buông mái chèo…rồi Tình ơi gian dối là tình/ Thuyền em rách nát còn lành được không (Cô gái sông Hương). Đó là những cái nhìn nhân văn đầy cảm thông trước những phận gái giang hồ một thuở nào.

Ngay từ thời quân chủ, thân phận ấy cũng được bày ra trong những cảm thông xa xót của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ, dù sử dụng bút pháp hoạt kê, trào phúng nhưng bài thơ không vì vậy mà kém phần nhân văn. Thử xem: Trên sông một chiếc thuyền lan(9)/ Một cô gái Huế một quan đại thần/
Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lại tần mần như ma/ Ban ngày quan lớn như cha/ Ban đêm quan lại rầy rà như con. (10)
Sông Hương như thể chiếc gương góa chồng
Cảm hứng về dòng sông Hương vẫn còn chảy mãi đến tận nhiều đời tiếp nối. Theo những chuyến đò dọc, đò ngang, sông Hương cũng đã làm nên những điệu dân ca còn lưu truyền mãi. Hò mái nhì, mái đẩy cùng một số làn điệu khác là những điển hình cho điệu hò sinh thành trên sông nước. Và rất nhiều khúc ca, bản nhạc, tác phẩm mỹ thuật hình thành trên cảm hứng về dòng sông này.

Nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao đã từng du lãm với mùa thu sông Hương bằng Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, để khi xa rồi, thi nhân cứ day dứt mãi và cuối cùng phải buột lên rằng: Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh.
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

Sông Hương với những khoảnh khắc của thời gian, với những quãng ngắt của không gian, luôn có thể tác động lên những tâm hồn lãng mạn. Ai từng sống với dòng sông này, luôn có thể bất chợt phát hiện ra rằng, sông Hương mỗi ngày thêm mỗi mới. Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa/ Có thể mây cao, có thể nắng vàng trong bài thơ Chiều Hương Giang của Nguyễn Khoa Điềm là những khoảnh khắc về thời gian và quãng ngắt về không gian nghệ thuật làm nền cảm hứng của thi sĩ. Khoảnh khắc nhưng chiều nay vô tình trong nắng muộn/ Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang là những phát hiện rất mới của thi sĩ.

Sông Hương vốn được biết bao ngôn từ dùng để ví von nhằm khắc họa hết tất cả những cái duyên ngầm và thi vị của nó, như đó là Điệu slow tình cảm; đó là người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya, như đó là tấm lụa mềm vắt ngang thành phố với những lời ru vỗ du dương dành cho nó.
Với nhà thơ Thu Bồn, thì sông Hương là một hiện thực tâm hồn, nhà thơ viết: Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Phát hiện mới mẻ này đã làm bàng hoàng cả một diễn trình mỹ từ dành cho sông Hương. Đây là một phát hiện tinh tế, và tinh tế hơn khi thi sĩ đã nhận thức rất rõ rằng: sông Hương đã góp phần làm nên văn hóa Huế, Huế rất sâu là Huế của những tầng vỉa văn hóa truyền thống. Nhà thơ tạm biệt Huế, tạm biệt dòng Hương để ngẩn ngơ, lưu luyến đến nỗi đã hóa đá phía bên kia của ngọn Hải Vân hùng vĩ. Em trong bài thơ cũng chính là dòng Hương cùng tác giả tình tự.
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
(Tạm biệt)

Mỗi một nhà thơ đều có một cách bày tỏ xúc cảm trước dòng Hương Giang trữ tình. Nhà thơ Huy Tập đã giả định rằng, nếu như chẳng có sông Hương, thì không biết: gửi tình cho Huế, gửi thương nơi nào? Và cuối cùng là Nếu như chẳng có dòng Hương/ Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Nhà thơ xem dòng sông này là duyên cớ của những tứ thơ về Huế và do vậy sông Hương đã trở thành nỗi đam mê của thi nhân, trở thành duyên cớ gửi trao tình cảm.
Nguyễn Xuân Sanh lại có một định ngữ khác: Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo/ Con đò: con mắt của sông Hương. Đến Huế, đến với sông Hương, thi sĩ nhận ra rằng, những con đò là hình ảnh gắn kết dòng sông này để làm nên tứ thơ: con đò - con mắt. Đó cũng là một định ngữ chính xác về không gian của sông Hương. Lại giả định rằng, nếu trên dòng sông này thiếu vắng những con đò thì ra sao nhỉ?
Ôi con đò con mắt yêu thương
Nhìn chúng ta say đắm lạ thường
Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo:
Con đò: con mắt của sông Hương!

Riêng với sông Hương,
Trương Nam Hương lại có một định ngữ khác về dòng sông này: Hương Giang như thể chiếc gương góa chồng. Bài thơ thể hiện nỗi niềm thế sự được trình bày, hóa giải với sông Hương bằng một cái tôi trữ tình, cái tôi đối thoại với dòng sông.
Bao nhiêu hưng phế, thịnh suy không ai lường hết được, đó là quy luật. Nhà thơ hoài niệm về quá khứ, liên hệ với hiện tại để thức nhận rằng:
Khói sương dâu bể toan cầm
Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay
Chẳng hòa tan được rủi may
Huế cho không cả ly đầy… bóng vua
.
(Riêng với sông Hương)
 Khó có thể kể hết tất cả những hình ảnh đẹp đã trở thành định ngữ về dòng sông Hương trong lịch sử thi ca.

Bởi lẽ, mỗi một nhà thơ, khi đến với dòng sông này đều bị mê hoặc với sự huyền ảo của không gian tương tác giữa toàn bộ khách thể thẩm mỹ và chủ thể nhận thức. Đó là chiếc cầu nối đồng hiện của hai chiều hiện thực và tâm hồn.
Bởi lẽ, sông Hương tự bao đời như đã là di sản của tâm linh, của hiện thực đời sống Huế.
Êm đềm theo thời gian, sông Hương đã cuộn lên một dòng chảy văn hóa đầy sức sống.
             H.T

(nguồn: TCSH số 220 - 06 - 2007)

 




------------------------------
 (1) 
Dịch từ nhan đề một bài thơ của Nguyễn Du (Thu chí)
(2) Dịch từ nhan đề một bài thơ của Cao Bá Quát (Hiểu quá Hương Giang)
(3) Nguyên văn: Phả ái nam phong giác chẩm biên.

(4) Cũng có quan điểm cho rằng, nhãn tự của bài thơ này là (kiếm), nhưng bản chất của tứ thơ được xác lập ngay từ đầu là trường giang (sông dài), cái “sự dài” đã trở thành đường dẫn để bắt đầu, cái “sự dài” tác động trực tiếp để có hình ảnh gián tiếp mang tính so sánh, định dạng là kiếm. Do vậy, chữ trường phải hiểu là nhãn tự, có tính quyết định, chi phối, nó làm ám ảnh thi nhân và làm nảy sinh tứ thơ.
(5) Hương Giang tạp vịnh.
(6) Nguyên văn: Giải đảo đông phong, phú nhất thi: Đè ngược ngọn gió đông mà ngâm một bài thơ.
(7)
Thần Kinh nhị thập cảnh: Hai mươi cảnh đất Thần Kinh.
(8)
Hương Giang hiểu phiếm: Buổi sớm du thuyền trên sông Hương
(9) Thuyền lan: có bản chép là thuyền nan.
(10)
Như con: có bản chép là hơn con. Bài này không có đầu đề, phần chữ Nôm do chúng tôi lập vì không có bản gốc.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.