Sông Hương & Những định ngữ thi ca

14:38 17/10/2008
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

Nguyên xưa, dòng sông này có nhiều tên gọi, trong Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An chép là sông Linh Giang. Theo dòng sử liệu, dòng sông này còn có các tên khác như sông Lô Dung, sông Dinh, sông Kim Trà và sau này mới được đổi thành Hương Giang như ngày nay.
Từ thượng nguồn đến hạ nguồn, sông Hương dài khoảng 100 km. Bắt đầu từ hai nguồn lớn, Tả Trạch và Hữu Trạch hợp với nhau tại ngã ba Bằng Lãng, từ đây với độ dài khoảng 30 km, sông Hương trở nên dịu dàng chảy vào lòng Huế rồi ầm ào ra biển Thuận An. Mang theo những phù sa của thiên nhiên, sông Hương quanh co chảy về biển khơi, tạo nên những làng mạc trù phú hình thành và phát triển từ bao đời nay.
Đoạn sông từ Kim Long đến Vĩ Dạ là điểm nhấn quan trọng và điển hình nhất của vẻ đẹp sông Hương, nhẹ nhàng thanh thoát như một tấm lụa của thiên nhiên. Từ những năm đầu tiên của thế kỷ XIX, khi xây dựng Kinh Thành Huế, các nhà kiến trúc đã chọn sông Hương làm yếu tố minh đường, là một yếu tố không thể thiếu trong quan niệm về thuật phong thủy lúc bấy giờ. Hai bên trước Kinh Thành là Cồn Hến và Cồn Dã Viên được xem là tả Thanh Longhữu Bạch Hổ, tạo nên cái thế vững chãi về tâm linh cho cả cụm kiến trúc Kinh Thành Huế.

Sông dài như kiếm dựng trời xanh
Sông Hương không chỉ là môi sinh lý tưởng của con người, nó còn là một biểu tượng thẩm mỹ của người dân xứ Huế. Sông đã chở trên mình những vỉa phù sa văn hóa, để nối từ thế hệ này sang thế hệ khác từng lớp quặng, cô lắng trong nhiều loại hình nghệ thuật, mà thơ ca là một điển hình.
Nhắc đến sông Hương, người ta nghĩ ngay đến con sông của thi, ca, nhạc, họa. Dòng sông này đã chở biết bao hứng khởi từ những tâm hồn lãng mạn.
Sông Hương với Tiên Điền Nguyễn Du, trong một dịp thu đến(1) thì: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu: Một tấm trăng Hương Giang/ Xưa nay gieo nhiều nỗi buồn.

Những câu thơ tả cảnh rất tinh tế với những phát hiện mà đến bây giờ vẫn còn rất mới về dòng Hương. Nỗi sầu trong câu thơ không là một nỗi sầu cô quạnh, đơn độc, mà đó là cái sầu bi mang tính mỹ học, cái sầu trong cô tĩnh luôn làm trăn trở thi ca. Nhà thơ đau đáu một niềm nhân thế, đau đáu về thời vận, đau đáu về những mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng.

Sông Hương với Chu Thần Cao Bá Quát, trong một Buổi sớm qua sông Hương(2) thì: Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền/ Trường giang như kiếm lập thanh thiên: Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng/ Sông dài như kiếm dựng trời xanh.
Thi sĩ thể hiện hạo khí của kẻ sĩ qua hình ảnh ví von sông dài như kiếm dựng trời xanh, đã làm nên một tượng đài ngôn ngữ muôn đời của dòng Hương. Sông thì như lưỡi kiếm, gió thì như chiếc gối, để thi nhân mơ mòng về nhân thế. Thi nhân Nương trận Nam Phong gối giấc nồng(3) như trước ông mấy thế kỷ, một danh sĩ Việt Nam là Trần Quang Khải từng Đè ngang ngọn gió đọc thơ chơi.
Đó là những hình ảnh đẹp và giàu tâm trạng.
Không gian nghệ thuật của Nguyễn Du và Cao Bá Quát được xác lập trên cơ sở của điểm nhìn, điểm ngắm của chủ thể sáng tạo (so với khách thể thẩm mỹ).

Căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Nguyễn Du là “ở trên bờ”, ở đây, nhãn tự trong bài thơ Thu chí của Nguyễn Du là:
phiến: mảnh, tấm, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều rộng trong không gian, phiếm chỉ sự dàn trải, mênh mông: Hương Giang nhất phiến nguyệt: một tấm trăng Hương Giang. Câu thơ thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: phiến nguyệt - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí vằng vặc (như trăng ở sông Hương).
Cũng
căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Cao Bá Quát là “ở giữa dòng” (trên thuyền), ở đây, nhãn tự trong câu thơ, bài thơ Hiểu quá Hương Giang của Cao Bá Quát là: trường: dài, xa, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều dài trong không gian, phiếm chỉ sự sâu thẳm, tít tắp: Trường giang như kiếm lập thanh thiên: sông dài như kiếm dựng trời xanh. Câu thơ cũng thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: trường giang - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí thăm thẳm (như dòng sông Hương)(4).

Với sông Hương, Cao Bá Quát còn có chùm thơ 10 bài tạp vịnh về Hương Giang(5). Qua những bài thơ này, chúng ta có thể cùng ông du lãm với sông Hương đến các địa danh như Kim Long, Hoàng Thành, Gia Hội, Bao Vinh. Du lãm để suy gẫm về nhân tình thế thái, để ngẫm nghĩ chuyện đời. Ví như:
Nhất đới duyên giang giáp đệ hùng/ Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông/ Vinh khô tứ thập dư niên sự/ Chỉ kiến hà hoa tự cựu hồng: Ven sông lầu gác trập trùng/ Đồn quân, dinh tướng tây đông mấy toà/ Thịnh suy bốn chục năm qua/ Riêng sen vẫn giữ màu hoa đỏ hồng.

Dòng Hương còn là nơi các công trình kiến trúc truyền thống, những di tích cố đô Huế soi bóng và tự kiểm chứng lại mình. Con sông đã xe duyên nối các công trình với nhau thành một thể. Từ thượng nguồn sông Hương là một yếu tố cảnh quan gắn với các lăng tẩm xứ Huế như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, theo dòng chảy về khơi lại tiếp tục gắn với một phức hệ kiến trúc như điện Hòn Chén, Văn Miếu, Võ Miếu, chùa Thiên Mụ... Phóng tầm mắt từ Kỳ Đài, sông Hương lại có một vẻ đẹp mới với một hệ thống công trình bao bọc điểm xuyết: từ Phu Văn Lâu đến Nghinh Lương Đình, từ cầu Trường Tiền đến thảm cây xanh dọc đôi bờ, xa hơn nữa là đỉnh Ngự Bình đã tạo nên một chỉnh thể hài hòa không có cơ hội để cắt xén. Do vậy, sông Hương cùng với núi Ngự, cầu Trường Tiền đã trở thành những biểu tượng tình cảm của Huế.

Trên điện Thái Hòa cũng xuất hiện 5 bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú viết về sông Hương của các vị vua triều Nguyễn với tính chất vịnh cảnh để tỏ chí là một trong những đặc trưng của dòng văn học trung đại. Điển hình như:     
- Giang hà thông chúng thủy/ Bình chướng liệt quần sơn: Hương Giang mạch nước nối dòng/ Ngự Bình tiếp tiếp tầng không chan hòa.
- Trản lãnh lăng hư thú/ Hương giang triệt để thanh: Núi Trản điệp cả màu châu/ Sông Hương in bóng đáy sâu trong lành.
- Hương thủy đà Ngân đới/ Bình sơn kháng ỷ lưu: Sông Hương tiếp dải ngân hà/ Ngự Bình giăng mắc nắng qua lụa mềm v.v.


Trong tác phẩm Thần Kinh nhị thập cảnh(7) viết về 20 danh thắng của cố đô xưa, bài thơ Hương Giang hiểu phiếm(8) của vua Thiệu Trị không chỉ là một bài vịnh cảnh thuần túy. Nhà vua mượn việc tả cảnh để bày tỏ cái chí của mình, qua sông Hương vào buổi sớm, đã thấy trời đông hửng ánh dương. Đó là ánh dương của một triều đại, một bình minh lịch sử mà nhà vua là người đứng đầu của triều đại đó. Bài thơ được khắc trên bia đá đặt bên cạnh Phu Văn Lâu, ngày nay vẫn còn chứng tích: Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành/ Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh (…) Kỷ hồi hà hiết thương lang khúc/ Song khuyết phương thăng thụy nhật minh: Ôm lấy Kinh đô nước uốn dòng/ Thả thuyền ban sớm nhẹ thong dong (…) Bao lâu nào rõ dòng chưa dứt/ Đã thấy trời đông hửng ánh dương.

Nhà thơ Thiệu Trị quan sát thiên nhiên, quan sát sông Hương bằng một trực cảm tinh tế, nắm bắt kịp thời những chi tiết, những hình ảnh mà đôi khi chỉ ngưng tụ trong một khoảnh khắc: Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ/ Sơn hoa do luyến kết vân anh: Cây cối vấn vương sương vẫn đẫm/ Cỏ hoa quyến luyến mây còn ngưng. Chỉ qua những hình ảnh mang tính gợi tả, nhưng vẫn khắc họa rất thành công những nét “sở thuộc” của sông Hương bằng bút pháp tinh tế và tình cảm chan chứa của nhà thơ.
Dòng sông Hương còn là một chứng nhân lịch sử, nó chở trên mình những chuyện vui buồn của thời gian. Trong lịch sử, dòng sông đã chở và chứng kiến biết bao câu chuyện nổi trôi đầy thân phận. Thảo Am Nguyễn Khoa Vy viết: Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời. Nhà thơ Tố Hữu viết: Trên dòng Hương Giang/ Em buông mái chèo…rồi Tình ơi gian dối là tình/ Thuyền em rách nát còn lành được không (Cô gái sông Hương). Đó là những cái nhìn nhân văn đầy cảm thông trước những phận gái giang hồ một thuở nào.

Ngay từ thời quân chủ, thân phận ấy cũng được bày ra trong những cảm thông xa xót của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ, dù sử dụng bút pháp hoạt kê, trào phúng nhưng bài thơ không vì vậy mà kém phần nhân văn. Thử xem: Trên sông một chiếc thuyền lan(9)/ Một cô gái Huế một quan đại thần/
Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lại tần mần như ma/ Ban ngày quan lớn như cha/ Ban đêm quan lại rầy rà như con. (10)
Sông Hương như thể chiếc gương góa chồng
Cảm hứng về dòng sông Hương vẫn còn chảy mãi đến tận nhiều đời tiếp nối. Theo những chuyến đò dọc, đò ngang, sông Hương cũng đã làm nên những điệu dân ca còn lưu truyền mãi. Hò mái nhì, mái đẩy cùng một số làn điệu khác là những điển hình cho điệu hò sinh thành trên sông nước. Và rất nhiều khúc ca, bản nhạc, tác phẩm mỹ thuật hình thành trên cảm hứng về dòng sông này.

Nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao đã từng du lãm với mùa thu sông Hương bằng Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, để khi xa rồi, thi nhân cứ day dứt mãi và cuối cùng phải buột lên rằng: Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh.
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

Sông Hương với những khoảnh khắc của thời gian, với những quãng ngắt của không gian, luôn có thể tác động lên những tâm hồn lãng mạn. Ai từng sống với dòng sông này, luôn có thể bất chợt phát hiện ra rằng, sông Hương mỗi ngày thêm mỗi mới. Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa/ Có thể mây cao, có thể nắng vàng trong bài thơ Chiều Hương Giang của Nguyễn Khoa Điềm là những khoảnh khắc về thời gian và quãng ngắt về không gian nghệ thuật làm nền cảm hứng của thi sĩ. Khoảnh khắc nhưng chiều nay vô tình trong nắng muộn/ Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang là những phát hiện rất mới của thi sĩ.

Sông Hương vốn được biết bao ngôn từ dùng để ví von nhằm khắc họa hết tất cả những cái duyên ngầm và thi vị của nó, như đó là Điệu slow tình cảm; đó là người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya, như đó là tấm lụa mềm vắt ngang thành phố với những lời ru vỗ du dương dành cho nó.
Với nhà thơ Thu Bồn, thì sông Hương là một hiện thực tâm hồn, nhà thơ viết: Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Phát hiện mới mẻ này đã làm bàng hoàng cả một diễn trình mỹ từ dành cho sông Hương. Đây là một phát hiện tinh tế, và tinh tế hơn khi thi sĩ đã nhận thức rất rõ rằng: sông Hương đã góp phần làm nên văn hóa Huế, Huế rất sâu là Huế của những tầng vỉa văn hóa truyền thống. Nhà thơ tạm biệt Huế, tạm biệt dòng Hương để ngẩn ngơ, lưu luyến đến nỗi đã hóa đá phía bên kia của ngọn Hải Vân hùng vĩ. Em trong bài thơ cũng chính là dòng Hương cùng tác giả tình tự.
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
(Tạm biệt)

Mỗi một nhà thơ đều có một cách bày tỏ xúc cảm trước dòng Hương Giang trữ tình. Nhà thơ Huy Tập đã giả định rằng, nếu như chẳng có sông Hương, thì không biết: gửi tình cho Huế, gửi thương nơi nào? Và cuối cùng là Nếu như chẳng có dòng Hương/ Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Nhà thơ xem dòng sông này là duyên cớ của những tứ thơ về Huế và do vậy sông Hương đã trở thành nỗi đam mê của thi nhân, trở thành duyên cớ gửi trao tình cảm.
Nguyễn Xuân Sanh lại có một định ngữ khác: Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo/ Con đò: con mắt của sông Hương. Đến Huế, đến với sông Hương, thi sĩ nhận ra rằng, những con đò là hình ảnh gắn kết dòng sông này để làm nên tứ thơ: con đò - con mắt. Đó cũng là một định ngữ chính xác về không gian của sông Hương. Lại giả định rằng, nếu trên dòng sông này thiếu vắng những con đò thì ra sao nhỉ?
Ôi con đò con mắt yêu thương
Nhìn chúng ta say đắm lạ thường
Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo:
Con đò: con mắt của sông Hương!

Riêng với sông Hương,
Trương Nam Hương lại có một định ngữ khác về dòng sông này: Hương Giang như thể chiếc gương góa chồng. Bài thơ thể hiện nỗi niềm thế sự được trình bày, hóa giải với sông Hương bằng một cái tôi trữ tình, cái tôi đối thoại với dòng sông.
Bao nhiêu hưng phế, thịnh suy không ai lường hết được, đó là quy luật. Nhà thơ hoài niệm về quá khứ, liên hệ với hiện tại để thức nhận rằng:
Khói sương dâu bể toan cầm
Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay
Chẳng hòa tan được rủi may
Huế cho không cả ly đầy… bóng vua
.
(Riêng với sông Hương)
 Khó có thể kể hết tất cả những hình ảnh đẹp đã trở thành định ngữ về dòng sông Hương trong lịch sử thi ca.

Bởi lẽ, mỗi một nhà thơ, khi đến với dòng sông này đều bị mê hoặc với sự huyền ảo của không gian tương tác giữa toàn bộ khách thể thẩm mỹ và chủ thể nhận thức. Đó là chiếc cầu nối đồng hiện của hai chiều hiện thực và tâm hồn.
Bởi lẽ, sông Hương tự bao đời như đã là di sản của tâm linh, của hiện thực đời sống Huế.
Êm đềm theo thời gian, sông Hương đã cuộn lên một dòng chảy văn hóa đầy sức sống.
             H.T

(nguồn: TCSH số 220 - 06 - 2007)

 




------------------------------
 (1) 
Dịch từ nhan đề một bài thơ của Nguyễn Du (Thu chí)
(2) Dịch từ nhan đề một bài thơ của Cao Bá Quát (Hiểu quá Hương Giang)
(3) Nguyên văn: Phả ái nam phong giác chẩm biên.

(4) Cũng có quan điểm cho rằng, nhãn tự của bài thơ này là (kiếm), nhưng bản chất của tứ thơ được xác lập ngay từ đầu là trường giang (sông dài), cái “sự dài” đã trở thành đường dẫn để bắt đầu, cái “sự dài” tác động trực tiếp để có hình ảnh gián tiếp mang tính so sánh, định dạng là kiếm. Do vậy, chữ trường phải hiểu là nhãn tự, có tính quyết định, chi phối, nó làm ám ảnh thi nhân và làm nảy sinh tứ thơ.
(5) Hương Giang tạp vịnh.
(6) Nguyên văn: Giải đảo đông phong, phú nhất thi: Đè ngược ngọn gió đông mà ngâm một bài thơ.
(7)
Thần Kinh nhị thập cảnh: Hai mươi cảnh đất Thần Kinh.
(8)
Hương Giang hiểu phiếm: Buổi sớm du thuyền trên sông Hương
(9) Thuyền lan: có bản chép là thuyền nan.
(10)
Như con: có bản chép là hơn con. Bài này không có đầu đề, phần chữ Nôm do chúng tôi lập vì không có bản gốc.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.