YAMAMOTO SHUGORO
Nhà văn Yamamoto Shugoro - Ảnh: internet
Yamamoto Shugoro (1903 -1967) tên thật là Shimizu Satomu, xuất hiện trên văn đàn Nhật Bản sau khi học việc tại một tiệm cầm đồ và làm phóng viên tạp chí. Ông nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết cổ trang. Tác phẩm của Shugoro miêu tả hoàn cảnh của những người dân thường sống ở thành phố, những phận người trôi dạt vô danh hay nỗi khó khăn của tầng lớp Samurai từ quan điểm của thường dân. Đặc biệt trong những năm cuối đời, ông đã có nhiều kiệt tác được đánh giá rất cao. Nguyễn Thống Nhất giới thiệu và dịch |
Có một xưởng nung vôi nằm trên bãi đất hoang cách xa con hào Nakabori.
Tòa nhà rộng chừng 100 bình1, cao hai tầng đã quá cũ kỹ, tất cả ván ốp tường đều khô nứt nghiêm trọng, giàn giáo không có bậc cấp dẫn từ bên ngoài lên tầng hai cũng mục nát đầy nguy hiểm. Khắp nơi từ mái nhà trở xuống phủ đầy tro bụi như lớp sơn trắng, từ những ô cửa sổ nhỏ trên cao và các khe hở đây đó, khói tro như sương mù dày đặc liên tục tuôn ra, cảnh tượng nó vần vũ xung quanh trông giống như một ngôi nhà bị bỏ lại trong cơn bão tuyết kinh hoàng.
Phía trước nhà xưởng, bên kia con đường dẫn đến bãi đất hoang là dòng sông, trên bãi đất san lấp nhô ra khỏi bờ đê, những núi vỏ sò được un thành từng loại, cạnh đó có đống than đá lớn, ngoài ra, chất đốt như củi thô và cành thông được xếp cao như bức tường chắn gió, tất cả đều bị tro bao phủ, không những thế, hầu như xung quanh tòa nhà chừng 1 đinh2, cả con đường và cỏ dại đều phủ đầy tro tàn, bốc mùi kinh khủng dưới ánh nắng, một mùi chua loét ngột ngạt như axit ngấm vào gỗ mục. Khi đến gần hơn, có thể trông thấy thứ như những hạt sương nhỏ li ti bay xuống lả tả.
Bên trong xưởng, bảy người lao động đang làm việc, bọn họ đều cởi truồng, chỉ che vùng kín bằng một mảnh vải tam giác, cạo tóc, trọc lóc như những người tù, thân thể cường tráng màu đồng thau rám nắng bị tro bao phủ hoàn toàn, tro len lỏi vào đến tận bên trong lông mày khiến họ có nét mặt vô cảm rùng rợn như chiếc mặt nạ… Những chiếc đầu trọc bên trên đôi vai cuồn cuộn cơ bắp ấy làm cho người nhìn có cảm giác hoang dã đến rùng mình.
Bốn người trong số đó là đàn ông và ba người còn lại là vợ của họ. (Vì có một người đàn ông độc thân). Những người phụ nữ cũng khỏa thân, cũng cạo tóc, nếu không có bộ ngực lớn nhô ra và phần thịt ở mông rung nẩy dữ dội theo chuyển động của họ thì hầu như không thể phân biệt được với những người đàn ông. Mảnh vải tam giác che vùng kín cũng không hề rộng hơn của đàn ông.
Bên trong tòa nhà đầy khói tro dày đặc như thể bước vào phòng tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, những con người man rợ phủ đầy tro này di chuyển chậm chạp trong im lặng, những bóng đèn thõng xuống từ trần nhà cao lúc mờ lúc tỏ, chập chờn theo từng đợt dao động của tro bụi phả ra… Những cơ bắp nổi lên trên cánh tay đưa lên xuống và sau những tấm lưng cong lúc ẩn lúc hiện trong lớp sương mù lay động, tất cả đều câm nín, ai cũng lặng im như đá, họ nặng nề quan sát miệng lò hay cời than, lầm lì như những người tù, bởi nếu mở miệng nói, tro sẽ bay ngay vào không chút do dự…
Trong một môi trường như vậy, tình cảm của con người không tránh khỏi bị ẩn ức và méo mó. Cảm xúc của họ bị dồn nén vào sâu tận bên trong. Cho dù có không như thế thì vì toàn bộ bề ngoài của cơ thể đều bị tro bụi bao phủ nên thậm chí không thể đưa mắt nhìn, chỉ có thể truyền đạt ý nghĩ bằng cách ra hiệu thật chậm và rõ ràng, vì thế tình cảm của họ dần trở nên u ám và chông chênh… Khi ai đó đi qua nhìn, họ sẽ hướng chiếc mặt nạ cứng như tượng thạch cao về phía đó và khẽ cử động đôi mắt mờ đục, những khuôn mặt thật đáng sợ, hơi hám tội lỗi khó lý giải ập mạnh vào người nhìn, cảm giác như những dã thú giương móng vuốt xương xẩu chực lao vào bất cứ lúc nào.
Thực tế trong những người đàn ông đó có một tù nhân, chừng bốn mươi tuổi, cơ thể gầy gò trơ xương, đôi mắt ti hí với ánh nhìn mờ đục, lưng còng xấu xí. Lai lịch của hắn ta, cũng như những người đàn ông kia, hoàn toàn không được rõ nhưng nghe nói rằng hắn đã ở nhà tù nào đó gần 20 năm vì phạm trọng tội. Hắn đến xưởng này chừng một năm trước, đương nhiên được thuê mà che giấu đi thân phận nhưng do có đôi lần, cảnh sát đến vì việc gì đó nên mới biết rằng hắn là một người tù.
Hắn lặng lẽ làm việc. Không bao giờ tham gia cùng những người khác, cả khi mọi người đi ra bờ sông lúc nghỉ ăn trưa hay trò chuyện sau giờ làm việc, lúc nào cũng đứng một mình bên bờ đầm đầy lau sậy phía sau nhà xưởng hoặc lom khom trước chuồng gia cầm của chủ như theo dõi sự di chuyển của đàn gà.
Hắn có tình yêu đặc biệt đối với động vật, hơn thế còn có một thói quen, ấy là câu cá về rồi be bờ trong đầm thả vào hoặc đánh bắt chim chích và nuôi chúng trong những chiếc lồng tự chế. Chẳng để mắt đến những loài nuôi thả rong như chó hay mèo. Và điều mà hắn yêu thích hơn cả là những con gà già gầy guộc ở trong chuồng nên thường mang cho chúng giun dế hoặc cơm ăn thừa.
“Cục cục cục, đây này, đây này!”
Hắn vừa cố dành giun cho lũ gà già vừa gọi “Cục cục cục, đây này, đây này!”, rồi ngồi xổm xuống trước chuồng, hai tay ôm lấy đầu gối, chăm chú quan sát chúng… Có lần ông chủ định thịt những con gà già ốm o ấy để khao mọi người, hắn liền đến nơi của chủ đề nghị mua lại chúng.
“Để làm gì?” - Người chủ hỏi một cách khó hiểu - “Anh định làm gì với những con gàgià ấy?”
“Tôi… thích chúng!”
“Nhưng chúng sẽ sớm chết thôi, đã chẳng thể nào ăn sâu bọ gì được nữa rồi, không sống được đến 2 tháng đâu!”
“Sẽ trả một lượng”.
Hắn ta mua những con gà già về, tự mình làm một cái chuồng riêng rồi bắt đầu nuôi chúng.
Những người cùng làm muốn biết hắn đã phạm tội gì. Vì thế thỉnh thoảng có người lại hỏi về việc đó nhưng hắn im lặng, nhún vai, quay mặt đi và với giọng như lẩm bẩm “Việc ấy à…” - Hắn nói, “Nói thế nào nhỉ, phạm tội đâu phải chuyện chơi, nếu là các người thì…”. Rốt cục hắn chẳng kể chuyện gì cả.
Trong đám phụ nữ, có một người trẻ nhất, tên là Ofusa, là vợ của người đàn ông tên Mokichi. Lúc ấy chừng 23, 24 tuổi.
Cô ta có một cơ thể rất chuẩn. Cặp mông nở nang săn chắc như phụ nữ trong tranh của Rubens3, những ngấn mỡ dày cuộn hai bên sườn nằm treo trên xương chậu, hai bầu vú hơi xệ nhưng nhô ra rất mạnh, rung nẩy đầy sức sống và mu cộm lên như của đàn ông, mỗi khi cúi xuống hay bước đi lại tạo nên những vết hằn khác nhau. Chiếc đầu (trọc lóc) nhẵn nhụi như quả cà tím, hình thù đơn giản như thể tượng trưng cho sự đồi bại, hai má phúng phính, môi dày và cong ra phía bên ngoài, lúc nào cũng ẩm ướt.
Không lâu trước đó, mọi người đều nhận ra gã đàn ông gầy gò ấy thường hay liếc trộm cô ả… Mỗi khi cô ta đong đưa thân hình mỡ màng đứng lên hay ngồi xuống, trong đôi mắt ti hí của hắn thấp thoáng tia nhìn như những mũi kim, lúc cô ta định đi tìm chồng để gánh bao vôi thì ngay lập tức hắn tiến đến giúp đỡ, và khi trên cơ thể cô ta gợn lên những cơ bắp săn chắc để nâng vật nặng, hắn ta vừa nuốt nước bọt vừa vội vàng rời mắt đi... Khi người phụ nữ quay lại từ nhà xí, vô tư chỉnh lại mảnh vải tam giác đi vào, ngay lập tức ánh mắt hắn ta ánh lên trong làn khói tro dày đặc như một con thú và có âm thanh nặng nề của vật gì đó bị đánh rơi xuống sàn.
Lúc đầu hắn ta còn dè dặt nhưng dần dần bộ dạng thay đổi, không ngừng lẩm bẩm điều gì đó trong miệng và đi loanh quanh, dậm chân thình thịch một cách không bình thường, hay khi tưởng ánh mắt hắn ta có điều gì đó buồn kinh khủng thì ngay lập tức hắn bỏ ra ngoài với thái độ hết sức thô lỗ. Ánh mắt hắn nhìn cô ả cũng dần trở nên không còn e dè, bất chấp hơn.
Mọi người đều biết điều đó. Đôi khi, có người không chịu nổi, nhìn hắn với vẻ bực tức hay hắng giọng thì hắn nhếch vai cự lại, khạc nhổ về phía đó như thách thức.
“Muốn gây à?” - Hắn nói bằng ánh mắt. “Muốn gây gì thì nói đi, dù sao tao cũng là thằng tù mà, hả? Thế nào?”
Mọi người im lặng quay đi.
Được biết, có loại phụ nữ bị thu hút mạnh mẽ bởi những người đàn ông không lành mạnh hay tội phạm và Ofusa ắt hẳn là một trong những phụ nữ đó, dù bắt gặp ánh mắt nhìn chằm chằm không rời, như liếm láp khắp cơ thể mình của gã đàn ông ốm o đó, y thị cũng không tỏ vẻ khó chịu mà thậm chí ngược lại, đôi khi còn cố tình uốn éo thân hình như đáp lại sự chú ý của đối phương bằng hành động tục tĩu.
![]() |
Minh họa: Nguyễn Thiện Đức |
Vào giờ nghỉ ăn trưa, lúc đi ra bờ sông, hễ cảm thấy có ánh mắt nhìn mình từ một góc nào đó, cô ta liền dạng hai chân ra với vẻ dâm loạn, vừa rên ư ử vừa cười khúc khích, ôm lấy vai những đồng nghiệp nữ khác, hát những lời như:
“Chừng nào là lăng loàn, chừng nào là tiết hạnh, chàng và em đều biết rõ…”.
Trong đám đồng nghiệp tượng thạch cao, thái độ của cô ta không thể nào không bị mọi người chú ý, đặc biệt là Mokichi, vừa theo dõi vợ mình với ánh mắt khó chịu, mặt khác, vừa quan sát nhất cử nhất động của hắn ta với vẻ căm ghét tột độ.
Vào một ngày giữa mùa hè.
Trước buổi trưa một chút, Mokichi định đến xem miệng lò nên đi lại gần lò nung thì trông thấy có ai đó đang lom khom trong làn khói mù mịt, lúc đến gần hơn thì ra là gã đàn ông ấy, hắn đang nhìn chằm chằm thứ gì đó trên sàn nhà như thể bò ra, lúc Mokichi tiến lại gần, hắn nhận thấy liền quay lại, vội vàng khuỳnh hai cánh tay như muốn che đậy thứ gì đó nhưng Mokichi đã nhanh hơn, phát hiện ra dấu vết một vài giọt màu đỏ thấm trên sàn tro.
Nhớ lại vợ mình đến tháng từ 2, 3 ngày trước, Mokichi liền cảm thấy xấu hổ và tức giận không thể tả, nổi điên lên, bất giác nắm chặt tay đấm dứ về phía hắn. Thế nhưng, hắn ngước nhìn Mokichi một cách ngang ngược, cong môi dưới vẻ giễu cợt, tiến lên một bước như sẵn sàng làm bất cứ điều gì… Mokichi ưỡn ngực, trừng mắt nhìn đối thủ tức tối nhưng rồi anh ta quay gót, đi ra phía sau như chạy trốn.
Lúc ăn trưa, Mokichi kể với đồng nghiệp chuyện đó, mọi người im lặng lắng nghe nhưng nét mặt ai cũng nhăn nhó bực tức, họ khạc nhổ như đã chạm vào thứ gì đó ô uế.
“Hắn đúng là một tên điên!” - Sau cùng một người thấp giọng lẩm bẩm.
“Nhưng không biết hắn định làm gì mà lén lút một mình nhìn thứ ấy nhỉ?”.
“Thế nhưng phải cẩn thận đó, sắp đến hắn sẽ gây chuyện thôi!”.
“Mọi người phải để mắt đến hắn!”
Một người khác nói mà không nhìn ai - “Và cũng phải bảo các mụ vợ không được đến gần hắn!”.
Đó là lời nói ám chỉ thái độ lả lơi của Ofusa. Mokichi cụp mắt xuống một cách nặng nề, dùng đầu móng chân cào cào lớp tro trên mặt đất.
Chiều hôm đó. Sau khi xong việc, hắn đi ra trước chuồng gà của mình ở phía sau xưởng. Lúc này, những con gà già đã yếu đi rõ rệt, chẳng còn sức lực, để mặc lũ bọ ký sinh lổm ngổm trên người, đứng im rúm ró trong góc, chỉ lúc nhắm lúc mở đôi mi trắng bệch.
“Cục cục cục, đây đây!”
Hắn vừa ném những hạt cơm vừa gọi “Cục cục cục, đây này! Đây này!”
Dù hắn có ném cho bao nhiêu lần đi nữa, lũ gà già vẫn đứng yên bất động, gần như sắp chết.
Hắn cũng đã biết điều đó từ trước.
…Thực sự khi không còn ăn được nữa thì cái chết của sinh vật đã đến.
Hắn thở dài bất lực rồi ngồi thụp xuống nhìn xa xăm… Đó là một ngày nắng, cỏ dại trên vùng đất hoang phát triển mạnh mẽ, nước trong đầm và mương dẫn lấp lánh lờ mờ trong ánh chiều tà, hắn ôm lấy đầu gối bằng hai tay, cau mày như bị chói nhìn về phía trời xa.
Những đám mây trôi đi và lá cây đong đưa trong gió khơi dậy những ảo ảnh ẩn giấu trong lòng người, bao kỷ niệm ùa về trong mắt hắn.
“Quái lạ!” - Hắn đờ đẫn lẩm bẩm - “Sao lại đến tận cái xó xỉnh này thế nhỉ?! Chẳng lẽ là một giấc mơ dài phi lý… Sao vợ mình mang cơm cho ca đêm đến từ con đường đó nhỉ… Lũ trẻ đang đợi ở nhà, chắc chắn hôm đó mình đi mua đinh về sửa khung cửa sổ bị hỏng mà… Tên khốn đó, hắn…”.
Hắn đột nhiên ôm lấy đầu, rên rỉ bằng giọng nghẹn ngào.
“Ủa, con gà này sắp chết rồi!”
Bỗng có tiếng nói từ phía sau, hắn giật mình quay lại thì thấy Ofusa đang đứng đó.
“Có vẻ không xong rồi ha.”.
“Ừ!”.
Hắn bối rối quay đi, người phụ nữ vẫn không rời mắt khỏi hắn, nói với giọng như trêu ghẹo.
“Nếu đã không nuôi được, sao hôm nay không thịt đi. Tôi sẽ bóp cổ giúp cho. Cảm giác bóp cái cổ lòa xòa lông lá thật tuyệt đấy!”.
“Đừng nói… ác độc vậy chứ, cho dù có là buôn bán đi nữa, cô…”.
“Anh đúng là kẻ nhút nhát!”.
Cô ả lúng liếng nhìn hắn ta, nói.
“Vậy mà cũng là tội phạm sao, hả, có phải anh làm không? Hay là…”.
“Cô hỏi để làm gì!”.
Nói xong hắn nhìn lên với ánh mắt sắc bén, ả đàn bà cười khùng khục với chiếc bụng trần gợn sóng… Hắn nhìn chằm chằm khuôn mặt đó một lúc nhưng rồi rùng mình quay đi như bị điều gì đó tấn công.
Trời bắt đầu tối, màn sương xám loang ra bãi đất hoang, những con chim cốc bay ầm ĩ trên đầm nước.
“Đêm nay có phiên chợ bờ hào đấy!”.
Một lúc sau, ả đàn bà cất tiếng: “Mọi người bảo là không đi nên tôi sẽ đi một mình nhưng đường về tối sợ lắm!”.
“Mokichi… không đi à?”.
Hắn rụt rè hỏi.
“Anh ta hả, rất vô tích sự, ăn xong là lăn ra ngủ như chết, y như một lão già!”.
“À”.
Hắn chợt nhỏ tiếng nhưng rồi chỉ hắng giọng và không nói gì nữa.
Người đàn bà thở dài hậm hực, gãi đầu nhưng sau cùng bỏ đi về phía nhà tắm bằng những bước chân uể oải.
“Chừng nào là lăng loàn, chừng nào là tiết hạnh, chàng và em đều biết rõ…” - Cô ta vừa bước đi vừa hát bằng giọng mũi.
Chiều ngày hôm sau. Trong làn khói mù mịt, bất chợt có tiếng phụ nữ la thất thanh.
“Á, cái này!”.
Ai đó bay qua làn khói tro.
“Chết tiệt, của tao…”.
Cùng lúc với những giọng nói ấy, có âm thanh ngã thịch của ai đó, tiếng thét ngắt quãng với giọng ngạt thở và cơn ho dữ dội. Khi mọi người chạy đến, một âm thanh trầm đục (như tiếng đập vỡ nồi đất) phát ra, tiếp theo sau là tiếng thét chói tai yếu ớt của ai đó kéo dài vang lên A…! Từ trong làn khói bụi dày đặc cuồn cuộn, một người đàn ông vừa ho dữ dội vừa khom lưng như chuột lao ra phía cửa sau, ra đến bên ngoài vẫn tiếp tục ho và sau đó thì biến mất vào bãi đất hoang. Chính là hắn ta.
Mọi người khiêng người đàn ông gục ngã ra khỏi xưởng, đó là Mokichi. Người vợ trần truồng ép chặt chiếc đầu bê bết máu của người chồng đang được khiêng ra giữa hai bầu vú, cất tiếng run rẩy khóc. Mokichi được đặt trên bãi cỏ, bất tỉnh với đôi đồng tử vẫn mở to.
“Á a a, a….” - Tiếng rên rỉ kéo dài như loạn trí.
Kẻ bỏ trốn ngay lập tức bị bắt.
Hắn bị những người lính cứu hỏa trẻ truy lùng lúc đang ẩn nấp trong đám lau sậy của bãi đất hoang. Không hề chống cự, hắn ngoan ngoãn chịu trói bằng dây và cứ thế bị kéo đến đồn cảnh sát.
Khi điều tra viên xét hỏi, hắn trả lời như thế này:
“Tôi đã bị nhầm, định xử con lợn nái súc sinh kia!”.
“Tại sao lại có ý định ấy với cô ta?”.
“Tôi không có ác cảm gì với anh ấy, chính con quỷ cái đó…”.
Cuối cùng, hắn cũng không nói tại sao lại có ý định làm hại người đàn bà… Chẳng bao lâu sau, hắn bị đưa đến một tòa án xa.
Mokichi nằm viện chừng ba tháng nhưng cái đầu bị đập vỡ bằng xẻng của anh ta cuối cùng đã không hồi phục. Sau khi ra viện, anh lang thang ở nhà người chủ xưởng một thời gian rồi sau đó cùng vợ đi đâu mất.
Người trong làng kiên nhẫn đào xới mọi chuyện để cố tìm hiểu nguyên nhân sự việc nhưng những người làm trong xưởng luôn câm nín, chỉ lắc những chiếc đầu trọc lóc phủ đầy tro bụi. Vì thế, nhiều suy đoán nảy sinh, những chuyện tình cảm phi lý được dựng lên, những bí mật về cuộc sống kỳ lạ của bọn họ được tạo ra và truyền tai nhau y như thật.
Thế nhưng bọn họ chẳng quan tâm đến những lời đồn đại ấy, vẫn cứ âm thầm quanh quẩn trong đám tro bụi… Tro tàn màu trắng đục dày đặc vẫn tỏa ra từ tòa nhà suốt ngày, phủ lên mặt đất và cỏ dại như sương mù, bay lả tả trong không trung.
Y.S
Dịch từ tiếng Nhật.
Nguồn: https://www.aozora.gr.jp/cards/001869 /files/57704_76399.html
(TCSH49SDB/06-2023)
----------------------------
1 Tsubo - Đơn vị đo diện tích, 1 tsubo = 3,3m2.
2 Chou - Đơn vị đo khoảng cách, 1 chou = 109,1m.
3 Peter Paul Rubens, họa sĩ người Hà Lan (1577 - 1640).
SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.
BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.
JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).
KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...
MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.
YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.
MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!
AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.
HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.
OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979 những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.
NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.
OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.
BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.
RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.
TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết. TSCH
JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.
A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".
ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.
ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.