YAMAMOTO SHUGORO
Nhà văn Yamamoto Shugoro - Ảnh: internet
Yamamoto Shugoro (1903 -1967) tên thật là Shimizu Satomu, xuất hiện trên văn đàn Nhật Bản sau khi học việc tại một tiệm cầm đồ và làm phóng viên tạp chí. Ông nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết cổ trang. Tác phẩm của Shugoro miêu tả hoàn cảnh của những người dân thường sống ở thành phố, những phận người trôi dạt vô danh hay nỗi khó khăn của tầng lớp Samurai từ quan điểm của thường dân. Đặc biệt trong những năm cuối đời, ông đã có nhiều kiệt tác được đánh giá rất cao. Nguyễn Thống Nhất giới thiệu và dịch |
Có một xưởng nung vôi nằm trên bãi đất hoang cách xa con hào Nakabori.
Tòa nhà rộng chừng 100 bình1, cao hai tầng đã quá cũ kỹ, tất cả ván ốp tường đều khô nứt nghiêm trọng, giàn giáo không có bậc cấp dẫn từ bên ngoài lên tầng hai cũng mục nát đầy nguy hiểm. Khắp nơi từ mái nhà trở xuống phủ đầy tro bụi như lớp sơn trắng, từ những ô cửa sổ nhỏ trên cao và các khe hở đây đó, khói tro như sương mù dày đặc liên tục tuôn ra, cảnh tượng nó vần vũ xung quanh trông giống như một ngôi nhà bị bỏ lại trong cơn bão tuyết kinh hoàng.
Phía trước nhà xưởng, bên kia con đường dẫn đến bãi đất hoang là dòng sông, trên bãi đất san lấp nhô ra khỏi bờ đê, những núi vỏ sò được un thành từng loại, cạnh đó có đống than đá lớn, ngoài ra, chất đốt như củi thô và cành thông được xếp cao như bức tường chắn gió, tất cả đều bị tro bao phủ, không những thế, hầu như xung quanh tòa nhà chừng 1 đinh2, cả con đường và cỏ dại đều phủ đầy tro tàn, bốc mùi kinh khủng dưới ánh nắng, một mùi chua loét ngột ngạt như axit ngấm vào gỗ mục. Khi đến gần hơn, có thể trông thấy thứ như những hạt sương nhỏ li ti bay xuống lả tả.
Bên trong xưởng, bảy người lao động đang làm việc, bọn họ đều cởi truồng, chỉ che vùng kín bằng một mảnh vải tam giác, cạo tóc, trọc lóc như những người tù, thân thể cường tráng màu đồng thau rám nắng bị tro bao phủ hoàn toàn, tro len lỏi vào đến tận bên trong lông mày khiến họ có nét mặt vô cảm rùng rợn như chiếc mặt nạ… Những chiếc đầu trọc bên trên đôi vai cuồn cuộn cơ bắp ấy làm cho người nhìn có cảm giác hoang dã đến rùng mình.
Bốn người trong số đó là đàn ông và ba người còn lại là vợ của họ. (Vì có một người đàn ông độc thân). Những người phụ nữ cũng khỏa thân, cũng cạo tóc, nếu không có bộ ngực lớn nhô ra và phần thịt ở mông rung nẩy dữ dội theo chuyển động của họ thì hầu như không thể phân biệt được với những người đàn ông. Mảnh vải tam giác che vùng kín cũng không hề rộng hơn của đàn ông.
Bên trong tòa nhà đầy khói tro dày đặc như thể bước vào phòng tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, những con người man rợ phủ đầy tro này di chuyển chậm chạp trong im lặng, những bóng đèn thõng xuống từ trần nhà cao lúc mờ lúc tỏ, chập chờn theo từng đợt dao động của tro bụi phả ra… Những cơ bắp nổi lên trên cánh tay đưa lên xuống và sau những tấm lưng cong lúc ẩn lúc hiện trong lớp sương mù lay động, tất cả đều câm nín, ai cũng lặng im như đá, họ nặng nề quan sát miệng lò hay cời than, lầm lì như những người tù, bởi nếu mở miệng nói, tro sẽ bay ngay vào không chút do dự…
Trong một môi trường như vậy, tình cảm của con người không tránh khỏi bị ẩn ức và méo mó. Cảm xúc của họ bị dồn nén vào sâu tận bên trong. Cho dù có không như thế thì vì toàn bộ bề ngoài của cơ thể đều bị tro bụi bao phủ nên thậm chí không thể đưa mắt nhìn, chỉ có thể truyền đạt ý nghĩ bằng cách ra hiệu thật chậm và rõ ràng, vì thế tình cảm của họ dần trở nên u ám và chông chênh… Khi ai đó đi qua nhìn, họ sẽ hướng chiếc mặt nạ cứng như tượng thạch cao về phía đó và khẽ cử động đôi mắt mờ đục, những khuôn mặt thật đáng sợ, hơi hám tội lỗi khó lý giải ập mạnh vào người nhìn, cảm giác như những dã thú giương móng vuốt xương xẩu chực lao vào bất cứ lúc nào.
Thực tế trong những người đàn ông đó có một tù nhân, chừng bốn mươi tuổi, cơ thể gầy gò trơ xương, đôi mắt ti hí với ánh nhìn mờ đục, lưng còng xấu xí. Lai lịch của hắn ta, cũng như những người đàn ông kia, hoàn toàn không được rõ nhưng nghe nói rằng hắn đã ở nhà tù nào đó gần 20 năm vì phạm trọng tội. Hắn đến xưởng này chừng một năm trước, đương nhiên được thuê mà che giấu đi thân phận nhưng do có đôi lần, cảnh sát đến vì việc gì đó nên mới biết rằng hắn là một người tù.
Hắn lặng lẽ làm việc. Không bao giờ tham gia cùng những người khác, cả khi mọi người đi ra bờ sông lúc nghỉ ăn trưa hay trò chuyện sau giờ làm việc, lúc nào cũng đứng một mình bên bờ đầm đầy lau sậy phía sau nhà xưởng hoặc lom khom trước chuồng gia cầm của chủ như theo dõi sự di chuyển của đàn gà.
Hắn có tình yêu đặc biệt đối với động vật, hơn thế còn có một thói quen, ấy là câu cá về rồi be bờ trong đầm thả vào hoặc đánh bắt chim chích và nuôi chúng trong những chiếc lồng tự chế. Chẳng để mắt đến những loài nuôi thả rong như chó hay mèo. Và điều mà hắn yêu thích hơn cả là những con gà già gầy guộc ở trong chuồng nên thường mang cho chúng giun dế hoặc cơm ăn thừa.
“Cục cục cục, đây này, đây này!”
Hắn vừa cố dành giun cho lũ gà già vừa gọi “Cục cục cục, đây này, đây này!”, rồi ngồi xổm xuống trước chuồng, hai tay ôm lấy đầu gối, chăm chú quan sát chúng… Có lần ông chủ định thịt những con gà già ốm o ấy để khao mọi người, hắn liền đến nơi của chủ đề nghị mua lại chúng.
“Để làm gì?” - Người chủ hỏi một cách khó hiểu - “Anh định làm gì với những con gàgià ấy?”
“Tôi… thích chúng!”
“Nhưng chúng sẽ sớm chết thôi, đã chẳng thể nào ăn sâu bọ gì được nữa rồi, không sống được đến 2 tháng đâu!”
“Sẽ trả một lượng”.
Hắn ta mua những con gà già về, tự mình làm một cái chuồng riêng rồi bắt đầu nuôi chúng.
Những người cùng làm muốn biết hắn đã phạm tội gì. Vì thế thỉnh thoảng có người lại hỏi về việc đó nhưng hắn im lặng, nhún vai, quay mặt đi và với giọng như lẩm bẩm “Việc ấy à…” - Hắn nói, “Nói thế nào nhỉ, phạm tội đâu phải chuyện chơi, nếu là các người thì…”. Rốt cục hắn chẳng kể chuyện gì cả.
Trong đám phụ nữ, có một người trẻ nhất, tên là Ofusa, là vợ của người đàn ông tên Mokichi. Lúc ấy chừng 23, 24 tuổi.
Cô ta có một cơ thể rất chuẩn. Cặp mông nở nang săn chắc như phụ nữ trong tranh của Rubens3, những ngấn mỡ dày cuộn hai bên sườn nằm treo trên xương chậu, hai bầu vú hơi xệ nhưng nhô ra rất mạnh, rung nẩy đầy sức sống và mu cộm lên như của đàn ông, mỗi khi cúi xuống hay bước đi lại tạo nên những vết hằn khác nhau. Chiếc đầu (trọc lóc) nhẵn nhụi như quả cà tím, hình thù đơn giản như thể tượng trưng cho sự đồi bại, hai má phúng phính, môi dày và cong ra phía bên ngoài, lúc nào cũng ẩm ướt.
Không lâu trước đó, mọi người đều nhận ra gã đàn ông gầy gò ấy thường hay liếc trộm cô ả… Mỗi khi cô ta đong đưa thân hình mỡ màng đứng lên hay ngồi xuống, trong đôi mắt ti hí của hắn thấp thoáng tia nhìn như những mũi kim, lúc cô ta định đi tìm chồng để gánh bao vôi thì ngay lập tức hắn tiến đến giúp đỡ, và khi trên cơ thể cô ta gợn lên những cơ bắp săn chắc để nâng vật nặng, hắn ta vừa nuốt nước bọt vừa vội vàng rời mắt đi... Khi người phụ nữ quay lại từ nhà xí, vô tư chỉnh lại mảnh vải tam giác đi vào, ngay lập tức ánh mắt hắn ta ánh lên trong làn khói tro dày đặc như một con thú và có âm thanh nặng nề của vật gì đó bị đánh rơi xuống sàn.
Lúc đầu hắn ta còn dè dặt nhưng dần dần bộ dạng thay đổi, không ngừng lẩm bẩm điều gì đó trong miệng và đi loanh quanh, dậm chân thình thịch một cách không bình thường, hay khi tưởng ánh mắt hắn ta có điều gì đó buồn kinh khủng thì ngay lập tức hắn bỏ ra ngoài với thái độ hết sức thô lỗ. Ánh mắt hắn nhìn cô ả cũng dần trở nên không còn e dè, bất chấp hơn.
Mọi người đều biết điều đó. Đôi khi, có người không chịu nổi, nhìn hắn với vẻ bực tức hay hắng giọng thì hắn nhếch vai cự lại, khạc nhổ về phía đó như thách thức.
“Muốn gây à?” - Hắn nói bằng ánh mắt. “Muốn gây gì thì nói đi, dù sao tao cũng là thằng tù mà, hả? Thế nào?”
Mọi người im lặng quay đi.
Được biết, có loại phụ nữ bị thu hút mạnh mẽ bởi những người đàn ông không lành mạnh hay tội phạm và Ofusa ắt hẳn là một trong những phụ nữ đó, dù bắt gặp ánh mắt nhìn chằm chằm không rời, như liếm láp khắp cơ thể mình của gã đàn ông ốm o đó, y thị cũng không tỏ vẻ khó chịu mà thậm chí ngược lại, đôi khi còn cố tình uốn éo thân hình như đáp lại sự chú ý của đối phương bằng hành động tục tĩu.
![]() |
Minh họa: Nguyễn Thiện Đức |
Vào giờ nghỉ ăn trưa, lúc đi ra bờ sông, hễ cảm thấy có ánh mắt nhìn mình từ một góc nào đó, cô ta liền dạng hai chân ra với vẻ dâm loạn, vừa rên ư ử vừa cười khúc khích, ôm lấy vai những đồng nghiệp nữ khác, hát những lời như:
“Chừng nào là lăng loàn, chừng nào là tiết hạnh, chàng và em đều biết rõ…”.
Trong đám đồng nghiệp tượng thạch cao, thái độ của cô ta không thể nào không bị mọi người chú ý, đặc biệt là Mokichi, vừa theo dõi vợ mình với ánh mắt khó chịu, mặt khác, vừa quan sát nhất cử nhất động của hắn ta với vẻ căm ghét tột độ.
Vào một ngày giữa mùa hè.
Trước buổi trưa một chút, Mokichi định đến xem miệng lò nên đi lại gần lò nung thì trông thấy có ai đó đang lom khom trong làn khói mù mịt, lúc đến gần hơn thì ra là gã đàn ông ấy, hắn đang nhìn chằm chằm thứ gì đó trên sàn nhà như thể bò ra, lúc Mokichi tiến lại gần, hắn nhận thấy liền quay lại, vội vàng khuỳnh hai cánh tay như muốn che đậy thứ gì đó nhưng Mokichi đã nhanh hơn, phát hiện ra dấu vết một vài giọt màu đỏ thấm trên sàn tro.
Nhớ lại vợ mình đến tháng từ 2, 3 ngày trước, Mokichi liền cảm thấy xấu hổ và tức giận không thể tả, nổi điên lên, bất giác nắm chặt tay đấm dứ về phía hắn. Thế nhưng, hắn ngước nhìn Mokichi một cách ngang ngược, cong môi dưới vẻ giễu cợt, tiến lên một bước như sẵn sàng làm bất cứ điều gì… Mokichi ưỡn ngực, trừng mắt nhìn đối thủ tức tối nhưng rồi anh ta quay gót, đi ra phía sau như chạy trốn.
Lúc ăn trưa, Mokichi kể với đồng nghiệp chuyện đó, mọi người im lặng lắng nghe nhưng nét mặt ai cũng nhăn nhó bực tức, họ khạc nhổ như đã chạm vào thứ gì đó ô uế.
“Hắn đúng là một tên điên!” - Sau cùng một người thấp giọng lẩm bẩm.
“Nhưng không biết hắn định làm gì mà lén lút một mình nhìn thứ ấy nhỉ?”.
“Thế nhưng phải cẩn thận đó, sắp đến hắn sẽ gây chuyện thôi!”.
“Mọi người phải để mắt đến hắn!”
Một người khác nói mà không nhìn ai - “Và cũng phải bảo các mụ vợ không được đến gần hắn!”.
Đó là lời nói ám chỉ thái độ lả lơi của Ofusa. Mokichi cụp mắt xuống một cách nặng nề, dùng đầu móng chân cào cào lớp tro trên mặt đất.
Chiều hôm đó. Sau khi xong việc, hắn đi ra trước chuồng gà của mình ở phía sau xưởng. Lúc này, những con gà già đã yếu đi rõ rệt, chẳng còn sức lực, để mặc lũ bọ ký sinh lổm ngổm trên người, đứng im rúm ró trong góc, chỉ lúc nhắm lúc mở đôi mi trắng bệch.
“Cục cục cục, đây đây!”
Hắn vừa ném những hạt cơm vừa gọi “Cục cục cục, đây này! Đây này!”
Dù hắn có ném cho bao nhiêu lần đi nữa, lũ gà già vẫn đứng yên bất động, gần như sắp chết.
Hắn cũng đã biết điều đó từ trước.
…Thực sự khi không còn ăn được nữa thì cái chết của sinh vật đã đến.
Hắn thở dài bất lực rồi ngồi thụp xuống nhìn xa xăm… Đó là một ngày nắng, cỏ dại trên vùng đất hoang phát triển mạnh mẽ, nước trong đầm và mương dẫn lấp lánh lờ mờ trong ánh chiều tà, hắn ôm lấy đầu gối bằng hai tay, cau mày như bị chói nhìn về phía trời xa.
Những đám mây trôi đi và lá cây đong đưa trong gió khơi dậy những ảo ảnh ẩn giấu trong lòng người, bao kỷ niệm ùa về trong mắt hắn.
“Quái lạ!” - Hắn đờ đẫn lẩm bẩm - “Sao lại đến tận cái xó xỉnh này thế nhỉ?! Chẳng lẽ là một giấc mơ dài phi lý… Sao vợ mình mang cơm cho ca đêm đến từ con đường đó nhỉ… Lũ trẻ đang đợi ở nhà, chắc chắn hôm đó mình đi mua đinh về sửa khung cửa sổ bị hỏng mà… Tên khốn đó, hắn…”.
Hắn đột nhiên ôm lấy đầu, rên rỉ bằng giọng nghẹn ngào.
“Ủa, con gà này sắp chết rồi!”
Bỗng có tiếng nói từ phía sau, hắn giật mình quay lại thì thấy Ofusa đang đứng đó.
“Có vẻ không xong rồi ha.”.
“Ừ!”.
Hắn bối rối quay đi, người phụ nữ vẫn không rời mắt khỏi hắn, nói với giọng như trêu ghẹo.
“Nếu đã không nuôi được, sao hôm nay không thịt đi. Tôi sẽ bóp cổ giúp cho. Cảm giác bóp cái cổ lòa xòa lông lá thật tuyệt đấy!”.
“Đừng nói… ác độc vậy chứ, cho dù có là buôn bán đi nữa, cô…”.
“Anh đúng là kẻ nhút nhát!”.
Cô ả lúng liếng nhìn hắn ta, nói.
“Vậy mà cũng là tội phạm sao, hả, có phải anh làm không? Hay là…”.
“Cô hỏi để làm gì!”.
Nói xong hắn nhìn lên với ánh mắt sắc bén, ả đàn bà cười khùng khục với chiếc bụng trần gợn sóng… Hắn nhìn chằm chằm khuôn mặt đó một lúc nhưng rồi rùng mình quay đi như bị điều gì đó tấn công.
Trời bắt đầu tối, màn sương xám loang ra bãi đất hoang, những con chim cốc bay ầm ĩ trên đầm nước.
“Đêm nay có phiên chợ bờ hào đấy!”.
Một lúc sau, ả đàn bà cất tiếng: “Mọi người bảo là không đi nên tôi sẽ đi một mình nhưng đường về tối sợ lắm!”.
“Mokichi… không đi à?”.
Hắn rụt rè hỏi.
“Anh ta hả, rất vô tích sự, ăn xong là lăn ra ngủ như chết, y như một lão già!”.
“À”.
Hắn chợt nhỏ tiếng nhưng rồi chỉ hắng giọng và không nói gì nữa.
Người đàn bà thở dài hậm hực, gãi đầu nhưng sau cùng bỏ đi về phía nhà tắm bằng những bước chân uể oải.
“Chừng nào là lăng loàn, chừng nào là tiết hạnh, chàng và em đều biết rõ…” - Cô ta vừa bước đi vừa hát bằng giọng mũi.
Chiều ngày hôm sau. Trong làn khói mù mịt, bất chợt có tiếng phụ nữ la thất thanh.
“Á, cái này!”.
Ai đó bay qua làn khói tro.
“Chết tiệt, của tao…”.
Cùng lúc với những giọng nói ấy, có âm thanh ngã thịch của ai đó, tiếng thét ngắt quãng với giọng ngạt thở và cơn ho dữ dội. Khi mọi người chạy đến, một âm thanh trầm đục (như tiếng đập vỡ nồi đất) phát ra, tiếp theo sau là tiếng thét chói tai yếu ớt của ai đó kéo dài vang lên A…! Từ trong làn khói bụi dày đặc cuồn cuộn, một người đàn ông vừa ho dữ dội vừa khom lưng như chuột lao ra phía cửa sau, ra đến bên ngoài vẫn tiếp tục ho và sau đó thì biến mất vào bãi đất hoang. Chính là hắn ta.
Mọi người khiêng người đàn ông gục ngã ra khỏi xưởng, đó là Mokichi. Người vợ trần truồng ép chặt chiếc đầu bê bết máu của người chồng đang được khiêng ra giữa hai bầu vú, cất tiếng run rẩy khóc. Mokichi được đặt trên bãi cỏ, bất tỉnh với đôi đồng tử vẫn mở to.
“Á a a, a….” - Tiếng rên rỉ kéo dài như loạn trí.
Kẻ bỏ trốn ngay lập tức bị bắt.
Hắn bị những người lính cứu hỏa trẻ truy lùng lúc đang ẩn nấp trong đám lau sậy của bãi đất hoang. Không hề chống cự, hắn ngoan ngoãn chịu trói bằng dây và cứ thế bị kéo đến đồn cảnh sát.
Khi điều tra viên xét hỏi, hắn trả lời như thế này:
“Tôi đã bị nhầm, định xử con lợn nái súc sinh kia!”.
“Tại sao lại có ý định ấy với cô ta?”.
“Tôi không có ác cảm gì với anh ấy, chính con quỷ cái đó…”.
Cuối cùng, hắn cũng không nói tại sao lại có ý định làm hại người đàn bà… Chẳng bao lâu sau, hắn bị đưa đến một tòa án xa.
Mokichi nằm viện chừng ba tháng nhưng cái đầu bị đập vỡ bằng xẻng của anh ta cuối cùng đã không hồi phục. Sau khi ra viện, anh lang thang ở nhà người chủ xưởng một thời gian rồi sau đó cùng vợ đi đâu mất.
Người trong làng kiên nhẫn đào xới mọi chuyện để cố tìm hiểu nguyên nhân sự việc nhưng những người làm trong xưởng luôn câm nín, chỉ lắc những chiếc đầu trọc lóc phủ đầy tro bụi. Vì thế, nhiều suy đoán nảy sinh, những chuyện tình cảm phi lý được dựng lên, những bí mật về cuộc sống kỳ lạ của bọn họ được tạo ra và truyền tai nhau y như thật.
Thế nhưng bọn họ chẳng quan tâm đến những lời đồn đại ấy, vẫn cứ âm thầm quanh quẩn trong đám tro bụi… Tro tàn màu trắng đục dày đặc vẫn tỏa ra từ tòa nhà suốt ngày, phủ lên mặt đất và cỏ dại như sương mù, bay lả tả trong không trung.
Y.S
Dịch từ tiếng Nhật.
Nguồn: https://www.aozora.gr.jp/cards/001869 /files/57704_76399.html
(TCSH49SDB/06-2023)
----------------------------
1 Tsubo - Đơn vị đo diện tích, 1 tsubo = 3,3m2.
2 Chou - Đơn vị đo khoảng cách, 1 chou = 109,1m.
3 Peter Paul Rubens, họa sĩ người Hà Lan (1577 - 1640).
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.