Người trong cuộc

16:08 09/12/2009
LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

(Ảnh: Internet)

Bài thơ có nhan đề “Nén hương lòng” phản ánh tâm trạng buồn thương, nỗi băn khoăn của anh về những đồng đội đã hy sinh, khái quát “trăm nghìn sinh mạng, muôn trạng vạn hình” đọng chiều sâu nhân văn cầu mong và ước nguyện:

“Lòng thành tưởng mộng đốt nén hương thơm
Đau đáu nguồn cơn nhớ tình đồng đội!”

Tôi không bình cũng không chữa được thơ anh. Nhưng tôi xúc động với nỗi niềm “đau đáu nguồn cơn” ở anh. Đó là tình người lính trong cuộc chiến tranh chống Mỹ - lòng chung thủy với đất nước, với đồng đội cùng vào sinh ra tử.

Anh là Phạm Ngọc Tuấn quê thôn Xuân Úc xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Vào bộ đội năm 1960, viết đơn tình nguyện bằng máu của mình xin được vào Nam chiến đấu 1963, bám trụ chiến trường Trị Thiên từ tháng chạp năm ấy cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Anh nghỉ hưu 1986, sinh sống tại Huế. Đến nay, tuổi hưu đã ngang tuổi anh ở chiến trường. Do vậy anh hiểu thấu vùng đất Trị Thiên anh hùng trong và sau chiến tranh sành sỏi không kém người gốc quê sành sỏi. Từ phía nam sông Bến Hải, đến đường 9, đồng bằng Triệu Hải, Phong Quảng Điền, Phú Lộc, đèo Hải Vân... anh đều thành thạo. Các trận đánh địch lớn nhỏ: Lao Bảo, Ba Lòng, A Chùm, Gốc Bai, Kacôva, động Tà Ư, Dốc Chè, đồi 673, A Tây, A Tây luật... (Quảng Trị) đến Khe Tre, Chúc Bao, Bạch Mã, Núi Truồi, núi Bông, núi Nghệ, Cù Mông, Nam Giang, Lương Mai, Sông Bồ, Động Thòa, Mũi Né, đèo Phước Tượng... (Thừa Thiên Huế) v.v..và v.v...

Trăm trận anh đã từng trải qua, vẫn dựng sơ đồ trong trí nhớ. Anh nói với tôi có khi anh ngồi nhắm mắt hàng giờ, hình dung lại đơn vị lúc hành quân, lúc nghỉ ngơi, những ngày gian truân thiếu đói, những trận đánh súng đạn mù trời, tiếng tăng rú, máy bay quần, những luồng sáng chằng chịt dọc ngang như chớp giật, rồi những ai còn, ai mất ở những cánh quân nào,.. Tất cả cứ diễn ra mồn một trước mắt anh. Cũng có lúc bất thần anh nhớ đồi núi thoai thoải của dãy Trường Sơn, nơi có ba cái miếu thờ, ba cây khế cổ thụ sai quả trĩu cành. Đơn vị anh hành quân qua đói lòng, cổ khô vì khát mà không ai dám hái- vì kỷ luật quân đội “Không được đụng đến cái kim sợi chỉ của dân; Phải thật sự tôn trọng phong tục tập quán, và tự do tín ngưỡng”. Bỗng anh nhớ và thương người bạn không còn.

Anh tên Nguyễn Thanh Đọc, quê Bắc Ninh, hiền từ, đẹp trai, làm nhiệm vụ nuôi quân. Chỉ vì hái sáu bắp ngô ở rẫy sát đường rừng để làm món canh cho đơn vị sau buổi hành quân nắng gắt mà phải làm bản kiểm điểm. Ngẫm ra anh thấy có cái gì cứng nhắc trong vận dụng điều luật. Nhưng ngẫm lại cũng có cái hay. Thời ấy mà lơi lỏng, sinh động một chút cũng dễ dẫn đến buông thả. Anh thích thú vấn đề này lắm. Anh cho sự thành công lớn nhất trong quân đội ta là kỷ luật nghiêm khó nơi đâu sánh kịp. Nó làm cho quân đội ta giác ngộ ngày càng cao, càng tự giác, đoàn kết, thương yêu nhau gắn bó, ý chí chiến đấu thật cừ, tình quân dân như cá với nước. Theo anh, nhờ vậy mà con người càng sinh tình, càng nhiều sáng tạo. Không ai thương yêu, đùm bọc, săn sóc, lo lắng, động viên cổ vũ nhau bằng tình đồng đội, bốn bể mà như một nhà. Ông bà, cha mẹ, vợ con, anh em, tình ruột thịt, dù thương nhau đến mấy cũng không sánh được. Đã nhiều lần tôi vểnh tai nghe anh nói về những người bộ đội, cán bộ, dân quân, công an viên, biệt động thành ở chiến trường Trị Thiên. Nào anh Thầm quê Quảng Ninh, hành quân trong đêm qua sông Kê Vạn bị chìm mà im lặng, không một tiếng kêu la để bảo đảm bí mật an toàn cho đơn vị trên đường vào trận. Nào cô Thơm công an viên xã Lộc An luôn xung phong dẫn đường cho các hoạt động phục kích địch đúng nơi, đúng hẹn. Nào liệt sĩ Phan Cảnh Kế biệt động nội thành Huế, người chỉ huy đạo quân tóc dài bắt liên lạc với các đầu mối cơ sở. Ông như một hiệp sĩ oai hùng, râu đen rậm và dài, đội nón dứa, mang áo chùng đen, thắt lưng vải đỏ, dùng đèn ba pin sáng quắc, ẩn hiện như xuất quỷ nhập thần. Mậu Thân 68, đúng giờ “G” ông là người đã mở cửa Chánh Tây cho quân ta nhập thành nội Huế.

Với anh có thể nơi đâu, thời điểm nào cũng đầy kỷ niệm thời chinh chiến. Nhân chuyện lụt bão, anh nhớ đêm mưa, kiểu mưa dầm như Huế. Đơn vị anh được lệnh đi nhận hai chục bao gạo ở phía Cầu Hai. Đấy là những ngày sau Mậu Thân gian nan, đói thiếu. Ba chục anh em vượt suối, băng rừng, đến nơi chỉ nhận được năm bao. Trên đường bị địch phục kích chết và bị thương quá nửa. Có anh em chết, mắt cứ mở trừng trừng! Bên xác bạn, anh khấn nhỏ vì đất nước, tình đồng đội, nghĩa đồng bào rồi giơ bàn tay vuốt nhẹ lên mặt, đôi mắt bạn từ từ khép lại. Sao mà lòng đau quặn thắt! Đến xem triển lãm của Bảo tàng kháng chiến Thừa Thiên- Huế anh nói với bạn bè về di tích Động So (A Lưới). Nơi ấy có mười hai hang đá lớn nhỏ. Hang nào chứa một tiểu đoàn, hang nào chứa vũ khí, đạn dược, hang nào quân khu làm bản doanh và nơi nào đã bị đá sập, lấy kín 6 chiến sĩ pháo cối đến nay vẫn chưa lấy ra được. Anh chỉ tay lên một vùng xanh trên bản đồ
Trị Thiên. Đó là thung lũng, nơi dùng làm bãi dấu xe tăng. Bên phải là Động So, bên trái Động Tà Ư.

Chính từ đây bốn chục xe tăng đã rầm rầm xuất phát vang động núi rừng, đi về Nam Đông theo đường 14 qua Na Sơn vào Đà Nẵng trong chiến dịch Mùa Xuân 1975. Nhiều người đứng quanh anh, khen anh tài nhớ, nhớ lâu và nhớ kỹ. Tôi lại nghĩ về anh có tấm lòng yêu thương da diết mảnh đất con người. Ý nghĩ ấy trong tôi chẳng phải bất chợt. Tôi biết anh, thân anh rồi ngưỡng mộ anh đâu chỉ qua những chuyện kể? Cũng chẳng phải vì anh là đại úy, tiểu đoàn trưởng về hưu, có danh hiệu dũng sĩ, được tặng nhiều huân chương huy chương, được tặng huy hiệu Bác Hồ, là thành viên trong đoàn dũng sĩ diệt Mỹ ở miền Nam được ra thăm miền Bắc, thăm Bác Hồ năm 1969. Hay anh là một trong những người hùng đã kéo cờ giải phóng lên kỳ đài Ngọ Môn Huế trong chiến thắng Mậu Thân 1968- người chiến sĩ trong đơn vị quân giải phóng thành phố Huế trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Điều cuốn hút sự ngưỡng mộ của tôi về anh là trong bối cảnh hòa bình anh vẫn giữ vững và phát huy truyền thống quân đội bằng những hành động đầy nhiệt tình và nhẫn nại. Mười hai năm nay anh đã phát hiện 574 liệt sĩ, con em của 27 tỉnh thành trên chiến trường Trị Thiên. Có tỉnh 1,2,3,4,5 người. Có tỉnh 17,20 người. Cũng có tỉnh 30 người như Hà Tây, Hà Tĩnh, 40 như Hưng Yên, Nghệ An, 50 như Hà Nội, 60 như Hải Dương, Thanh Hóa, 70 như Hải Phòng và 90 như Thái Bình. Trong số liệt sĩ ấy, anh đã trực tiếp cất bốc cho các gia đình thân nhân đem về quê ở các tỉnh miền Bắc là 50 liệt sĩ. Còn 524 liệt sĩ là ở các nghĩa trang Lộc Bổn, Lộc Điền, Xuân Lộc, Lộc An, Hương Thọ, Hương Vân, Bình Điền, Phong Sơn của các huyện Phú Lộc, Hương Thủy, Hương Trà, Phong Điền, A Lưới, Nam Đông và nghĩa trang thành phố Huế.

Anh còn thường xuyên thư từ, thăm viếng, bạn bè đồng đội. Qua họ anh xác minh thêm các liệt sĩ còn ẩn tích và cuộc sống gia đình họ. Những ai đã được chính sách ưu đãi, ai chưa? gia đình nào đã khá lên, ai còn khó khăn chật vật. Anh đã giúp được gia đình liệt sĩ Chu Văn Dần quê Bắc Thái, Hoàng Công Liên quê Phú Thọ, Hà Thiện Tế ở Nam Định, Nguyễn Công Tuấn ở Hải Phòng có đủ minh chứng làm hồ sơ chính sách liệt sĩ. Những công việc trên cuốn hút anh không hề ngưng nghỉ. Cũng có người không hiểu anh, họ nói trách: Tay ấy chẳng biết chăm lo việc nhà- gia đình thì túng thiếu, chỗ ở thì chật chội chỉ 12 thước vuông. Mà ngày này qua tháng khác đi lông bông tìm mộ liệt sĩ! Có người lại bảo: Anh ta đâu có dại khờ! Thời buổi này việc gì chẳng có giá! Việc ấy giá càng cao, biết đâu nay mai anh sẽ xây lầu, ta sao biết được!

Họ đâu có hiểu ngoài đồng lương hưu của hai vợ chồng vỏn vẹn sáu trăm nghìn, vợ anh nuôi heo, kèm theo cái tủ nhỏ đặt dọc đường bán vặt vài chai bia vài bao thuốc lá. Anh thì tranh thủ thời gian rảnh rỗi đẩy xe chở hàng thuê. Khi thì phụ việc quản lý trật tự chợ Đông Ba. Khi thì giữ vật liệu cho công trình tu bổ cầu Trường Tiền v.v.. Cái giá tìm mộ liệt sĩ của anh cao thật, cao về lương tri, đạo nghĩa, chứ đâu có giá cao của thị trường thương mại! Anh chỉ nhận những gì theo chính sách, chế độ nhà nước quy định, may lắm là đủ chi tiêu trong các cuộc đi và trà nước tiếp khách các nơi về. Nhiều gia đình thân nhân liệt sĩ biếu tặng anh tiền, anh đâu có nhận. Từng đi theo họ để tìm kiếm, viếng thăm, cất bốc, anh hiểu rõ một chuyến đi chỉ bốn người, với độ đường vài trăm cây số, tiền ăn, tàu xe cả đi về, thời gian năm ngày, tằn tiện hết mức cũng đã tốn bốn triệu. Người giàu có thì không lo. Nhưng gia đình nghèo mà sự giúp đỡ của địa phương hạn hẹp thì với họ tình thương cọng thêm vào nỗi khổ. Chồng thư của bao người tỏ lòng biết ơn anh càng sáng tỏ điều đó.

Bà Ngô Thị Hòe 74 tuổi ở tỉnh Phú Thọ viết: “Tôi đã đi nhiều nơi tìm mộ con trai liệt sĩ Nguyễn Văn Ngọ. Đến đây mới thực yên lòng được đem con về. Ở đâu tôi cũng được cơ quan và nhân dân giúp đỡ, song người tận tình và tốt như bác Tuấn thật hiếm có". Ông Nguyễn Tấn, thiếu tướng nguyên Phó tư lệnh bộ đội biên phòng quê tỉnh Thanh hóa viết thư cho cơ quan đương sự ở Huế có đoạn: “Đồng chí Tuấn đã trực tiếp bốc mộ em trai tôi về quê. Gia đình tôi chân thành cám ơn phường Thuận Thành đã có người cựu chiến binh có tâm và công lao lớn trong việc tìm kiếm mộ liệt sĩ. Đề nghị các cơ quan chức năng tạo mọi điều kiện giúp đỡ gia đình đồng chí Tuấn theo chính sách thật xứng đáng”. Những dòng thư đầy tình nghĩa ấy ngày một nhiều thêm trong tủ anh.

Anh nói với tôi, lo đủ ăn cho cả nhà, hai đứa con vào được đại học, một đứa đang cấp 3 đã “bở hơi tai” có dư ngàn nào đâu mà tích lũy. Rồi nhìn tôi, anh quắc đôi mắt tinh anh, lộ hai gò má nhô cao, vừng trán rộng và nói: Ai chẳng muốn giàu! nhưng khả năng mình mới đến vậy! Rồi như niềm tâm sự riêng anh dịu giọng: Cuộc sống rút cuộc là tình đời. Tôi cũng có thể dồn sức làm nhiều việc kiếm tiền, chưa hẳn giàu được như ai cũng có thể khá hơn. Hiềm một nỗi tâm tư tôi không sao quên nghĩa tình đồng đội, sống chết có nhau. Nhiều bà con xa xôi nghìn dặm, họ hy sinh công của đi tìm mộ thân nhân, mình sao nỡ tiếc thời gian mà quên tình đồng đội! Mình may mắn được sống, dù sao vẫn hạnh phúc hơn bao đồng đội đã chết. Anh cười, nụ cười vui hết cỡ.

Thì ra nỗi “đau đáu” về tình đồng đội dồn nén trong anh suốt thời gian về hưu, nay thành thơ là vậy. Thơ lòng của người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước. Người trong cuộc đã và đang phát huy truyền thống cha ông, dân tộc. Truyền thống của ý chí tình yêu tổ quốc, của đạo lý con người.

Tháng 11-98
L.K.
(125/07-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...