Người trong cuộc

16:08 09/12/2009
LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

(Ảnh: Internet)

Bài thơ có nhan đề “Nén hương lòng” phản ánh tâm trạng buồn thương, nỗi băn khoăn của anh về những đồng đội đã hy sinh, khái quát “trăm nghìn sinh mạng, muôn trạng vạn hình” đọng chiều sâu nhân văn cầu mong và ước nguyện:

“Lòng thành tưởng mộng đốt nén hương thơm
Đau đáu nguồn cơn nhớ tình đồng đội!”

Tôi không bình cũng không chữa được thơ anh. Nhưng tôi xúc động với nỗi niềm “đau đáu nguồn cơn” ở anh. Đó là tình người lính trong cuộc chiến tranh chống Mỹ - lòng chung thủy với đất nước, với đồng đội cùng vào sinh ra tử.

Anh là Phạm Ngọc Tuấn quê thôn Xuân Úc xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Vào bộ đội năm 1960, viết đơn tình nguyện bằng máu của mình xin được vào Nam chiến đấu 1963, bám trụ chiến trường Trị Thiên từ tháng chạp năm ấy cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Anh nghỉ hưu 1986, sinh sống tại Huế. Đến nay, tuổi hưu đã ngang tuổi anh ở chiến trường. Do vậy anh hiểu thấu vùng đất Trị Thiên anh hùng trong và sau chiến tranh sành sỏi không kém người gốc quê sành sỏi. Từ phía nam sông Bến Hải, đến đường 9, đồng bằng Triệu Hải, Phong Quảng Điền, Phú Lộc, đèo Hải Vân... anh đều thành thạo. Các trận đánh địch lớn nhỏ: Lao Bảo, Ba Lòng, A Chùm, Gốc Bai, Kacôva, động Tà Ư, Dốc Chè, đồi 673, A Tây, A Tây luật... (Quảng Trị) đến Khe Tre, Chúc Bao, Bạch Mã, Núi Truồi, núi Bông, núi Nghệ, Cù Mông, Nam Giang, Lương Mai, Sông Bồ, Động Thòa, Mũi Né, đèo Phước Tượng... (Thừa Thiên Huế) v.v..và v.v...

Trăm trận anh đã từng trải qua, vẫn dựng sơ đồ trong trí nhớ. Anh nói với tôi có khi anh ngồi nhắm mắt hàng giờ, hình dung lại đơn vị lúc hành quân, lúc nghỉ ngơi, những ngày gian truân thiếu đói, những trận đánh súng đạn mù trời, tiếng tăng rú, máy bay quần, những luồng sáng chằng chịt dọc ngang như chớp giật, rồi những ai còn, ai mất ở những cánh quân nào,.. Tất cả cứ diễn ra mồn một trước mắt anh. Cũng có lúc bất thần anh nhớ đồi núi thoai thoải của dãy Trường Sơn, nơi có ba cái miếu thờ, ba cây khế cổ thụ sai quả trĩu cành. Đơn vị anh hành quân qua đói lòng, cổ khô vì khát mà không ai dám hái- vì kỷ luật quân đội “Không được đụng đến cái kim sợi chỉ của dân; Phải thật sự tôn trọng phong tục tập quán, và tự do tín ngưỡng”. Bỗng anh nhớ và thương người bạn không còn.

Anh tên Nguyễn Thanh Đọc, quê Bắc Ninh, hiền từ, đẹp trai, làm nhiệm vụ nuôi quân. Chỉ vì hái sáu bắp ngô ở rẫy sát đường rừng để làm món canh cho đơn vị sau buổi hành quân nắng gắt mà phải làm bản kiểm điểm. Ngẫm ra anh thấy có cái gì cứng nhắc trong vận dụng điều luật. Nhưng ngẫm lại cũng có cái hay. Thời ấy mà lơi lỏng, sinh động một chút cũng dễ dẫn đến buông thả. Anh thích thú vấn đề này lắm. Anh cho sự thành công lớn nhất trong quân đội ta là kỷ luật nghiêm khó nơi đâu sánh kịp. Nó làm cho quân đội ta giác ngộ ngày càng cao, càng tự giác, đoàn kết, thương yêu nhau gắn bó, ý chí chiến đấu thật cừ, tình quân dân như cá với nước. Theo anh, nhờ vậy mà con người càng sinh tình, càng nhiều sáng tạo. Không ai thương yêu, đùm bọc, săn sóc, lo lắng, động viên cổ vũ nhau bằng tình đồng đội, bốn bể mà như một nhà. Ông bà, cha mẹ, vợ con, anh em, tình ruột thịt, dù thương nhau đến mấy cũng không sánh được. Đã nhiều lần tôi vểnh tai nghe anh nói về những người bộ đội, cán bộ, dân quân, công an viên, biệt động thành ở chiến trường Trị Thiên. Nào anh Thầm quê Quảng Ninh, hành quân trong đêm qua sông Kê Vạn bị chìm mà im lặng, không một tiếng kêu la để bảo đảm bí mật an toàn cho đơn vị trên đường vào trận. Nào cô Thơm công an viên xã Lộc An luôn xung phong dẫn đường cho các hoạt động phục kích địch đúng nơi, đúng hẹn. Nào liệt sĩ Phan Cảnh Kế biệt động nội thành Huế, người chỉ huy đạo quân tóc dài bắt liên lạc với các đầu mối cơ sở. Ông như một hiệp sĩ oai hùng, râu đen rậm và dài, đội nón dứa, mang áo chùng đen, thắt lưng vải đỏ, dùng đèn ba pin sáng quắc, ẩn hiện như xuất quỷ nhập thần. Mậu Thân 68, đúng giờ “G” ông là người đã mở cửa Chánh Tây cho quân ta nhập thành nội Huế.

Với anh có thể nơi đâu, thời điểm nào cũng đầy kỷ niệm thời chinh chiến. Nhân chuyện lụt bão, anh nhớ đêm mưa, kiểu mưa dầm như Huế. Đơn vị anh được lệnh đi nhận hai chục bao gạo ở phía Cầu Hai. Đấy là những ngày sau Mậu Thân gian nan, đói thiếu. Ba chục anh em vượt suối, băng rừng, đến nơi chỉ nhận được năm bao. Trên đường bị địch phục kích chết và bị thương quá nửa. Có anh em chết, mắt cứ mở trừng trừng! Bên xác bạn, anh khấn nhỏ vì đất nước, tình đồng đội, nghĩa đồng bào rồi giơ bàn tay vuốt nhẹ lên mặt, đôi mắt bạn từ từ khép lại. Sao mà lòng đau quặn thắt! Đến xem triển lãm của Bảo tàng kháng chiến Thừa Thiên- Huế anh nói với bạn bè về di tích Động So (A Lưới). Nơi ấy có mười hai hang đá lớn nhỏ. Hang nào chứa một tiểu đoàn, hang nào chứa vũ khí, đạn dược, hang nào quân khu làm bản doanh và nơi nào đã bị đá sập, lấy kín 6 chiến sĩ pháo cối đến nay vẫn chưa lấy ra được. Anh chỉ tay lên một vùng xanh trên bản đồ
Trị Thiên. Đó là thung lũng, nơi dùng làm bãi dấu xe tăng. Bên phải là Động So, bên trái Động Tà Ư.

Chính từ đây bốn chục xe tăng đã rầm rầm xuất phát vang động núi rừng, đi về Nam Đông theo đường 14 qua Na Sơn vào Đà Nẵng trong chiến dịch Mùa Xuân 1975. Nhiều người đứng quanh anh, khen anh tài nhớ, nhớ lâu và nhớ kỹ. Tôi lại nghĩ về anh có tấm lòng yêu thương da diết mảnh đất con người. Ý nghĩ ấy trong tôi chẳng phải bất chợt. Tôi biết anh, thân anh rồi ngưỡng mộ anh đâu chỉ qua những chuyện kể? Cũng chẳng phải vì anh là đại úy, tiểu đoàn trưởng về hưu, có danh hiệu dũng sĩ, được tặng nhiều huân chương huy chương, được tặng huy hiệu Bác Hồ, là thành viên trong đoàn dũng sĩ diệt Mỹ ở miền Nam được ra thăm miền Bắc, thăm Bác Hồ năm 1969. Hay anh là một trong những người hùng đã kéo cờ giải phóng lên kỳ đài Ngọ Môn Huế trong chiến thắng Mậu Thân 1968- người chiến sĩ trong đơn vị quân giải phóng thành phố Huế trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Điều cuốn hút sự ngưỡng mộ của tôi về anh là trong bối cảnh hòa bình anh vẫn giữ vững và phát huy truyền thống quân đội bằng những hành động đầy nhiệt tình và nhẫn nại. Mười hai năm nay anh đã phát hiện 574 liệt sĩ, con em của 27 tỉnh thành trên chiến trường Trị Thiên. Có tỉnh 1,2,3,4,5 người. Có tỉnh 17,20 người. Cũng có tỉnh 30 người như Hà Tây, Hà Tĩnh, 40 như Hưng Yên, Nghệ An, 50 như Hà Nội, 60 như Hải Dương, Thanh Hóa, 70 như Hải Phòng và 90 như Thái Bình. Trong số liệt sĩ ấy, anh đã trực tiếp cất bốc cho các gia đình thân nhân đem về quê ở các tỉnh miền Bắc là 50 liệt sĩ. Còn 524 liệt sĩ là ở các nghĩa trang Lộc Bổn, Lộc Điền, Xuân Lộc, Lộc An, Hương Thọ, Hương Vân, Bình Điền, Phong Sơn của các huyện Phú Lộc, Hương Thủy, Hương Trà, Phong Điền, A Lưới, Nam Đông và nghĩa trang thành phố Huế.

Anh còn thường xuyên thư từ, thăm viếng, bạn bè đồng đội. Qua họ anh xác minh thêm các liệt sĩ còn ẩn tích và cuộc sống gia đình họ. Những ai đã được chính sách ưu đãi, ai chưa? gia đình nào đã khá lên, ai còn khó khăn chật vật. Anh đã giúp được gia đình liệt sĩ Chu Văn Dần quê Bắc Thái, Hoàng Công Liên quê Phú Thọ, Hà Thiện Tế ở Nam Định, Nguyễn Công Tuấn ở Hải Phòng có đủ minh chứng làm hồ sơ chính sách liệt sĩ. Những công việc trên cuốn hút anh không hề ngưng nghỉ. Cũng có người không hiểu anh, họ nói trách: Tay ấy chẳng biết chăm lo việc nhà- gia đình thì túng thiếu, chỗ ở thì chật chội chỉ 12 thước vuông. Mà ngày này qua tháng khác đi lông bông tìm mộ liệt sĩ! Có người lại bảo: Anh ta đâu có dại khờ! Thời buổi này việc gì chẳng có giá! Việc ấy giá càng cao, biết đâu nay mai anh sẽ xây lầu, ta sao biết được!

Họ đâu có hiểu ngoài đồng lương hưu của hai vợ chồng vỏn vẹn sáu trăm nghìn, vợ anh nuôi heo, kèm theo cái tủ nhỏ đặt dọc đường bán vặt vài chai bia vài bao thuốc lá. Anh thì tranh thủ thời gian rảnh rỗi đẩy xe chở hàng thuê. Khi thì phụ việc quản lý trật tự chợ Đông Ba. Khi thì giữ vật liệu cho công trình tu bổ cầu Trường Tiền v.v.. Cái giá tìm mộ liệt sĩ của anh cao thật, cao về lương tri, đạo nghĩa, chứ đâu có giá cao của thị trường thương mại! Anh chỉ nhận những gì theo chính sách, chế độ nhà nước quy định, may lắm là đủ chi tiêu trong các cuộc đi và trà nước tiếp khách các nơi về. Nhiều gia đình thân nhân liệt sĩ biếu tặng anh tiền, anh đâu có nhận. Từng đi theo họ để tìm kiếm, viếng thăm, cất bốc, anh hiểu rõ một chuyến đi chỉ bốn người, với độ đường vài trăm cây số, tiền ăn, tàu xe cả đi về, thời gian năm ngày, tằn tiện hết mức cũng đã tốn bốn triệu. Người giàu có thì không lo. Nhưng gia đình nghèo mà sự giúp đỡ của địa phương hạn hẹp thì với họ tình thương cọng thêm vào nỗi khổ. Chồng thư của bao người tỏ lòng biết ơn anh càng sáng tỏ điều đó.

Bà Ngô Thị Hòe 74 tuổi ở tỉnh Phú Thọ viết: “Tôi đã đi nhiều nơi tìm mộ con trai liệt sĩ Nguyễn Văn Ngọ. Đến đây mới thực yên lòng được đem con về. Ở đâu tôi cũng được cơ quan và nhân dân giúp đỡ, song người tận tình và tốt như bác Tuấn thật hiếm có". Ông Nguyễn Tấn, thiếu tướng nguyên Phó tư lệnh bộ đội biên phòng quê tỉnh Thanh hóa viết thư cho cơ quan đương sự ở Huế có đoạn: “Đồng chí Tuấn đã trực tiếp bốc mộ em trai tôi về quê. Gia đình tôi chân thành cám ơn phường Thuận Thành đã có người cựu chiến binh có tâm và công lao lớn trong việc tìm kiếm mộ liệt sĩ. Đề nghị các cơ quan chức năng tạo mọi điều kiện giúp đỡ gia đình đồng chí Tuấn theo chính sách thật xứng đáng”. Những dòng thư đầy tình nghĩa ấy ngày một nhiều thêm trong tủ anh.

Anh nói với tôi, lo đủ ăn cho cả nhà, hai đứa con vào được đại học, một đứa đang cấp 3 đã “bở hơi tai” có dư ngàn nào đâu mà tích lũy. Rồi nhìn tôi, anh quắc đôi mắt tinh anh, lộ hai gò má nhô cao, vừng trán rộng và nói: Ai chẳng muốn giàu! nhưng khả năng mình mới đến vậy! Rồi như niềm tâm sự riêng anh dịu giọng: Cuộc sống rút cuộc là tình đời. Tôi cũng có thể dồn sức làm nhiều việc kiếm tiền, chưa hẳn giàu được như ai cũng có thể khá hơn. Hiềm một nỗi tâm tư tôi không sao quên nghĩa tình đồng đội, sống chết có nhau. Nhiều bà con xa xôi nghìn dặm, họ hy sinh công của đi tìm mộ thân nhân, mình sao nỡ tiếc thời gian mà quên tình đồng đội! Mình may mắn được sống, dù sao vẫn hạnh phúc hơn bao đồng đội đã chết. Anh cười, nụ cười vui hết cỡ.

Thì ra nỗi “đau đáu” về tình đồng đội dồn nén trong anh suốt thời gian về hưu, nay thành thơ là vậy. Thơ lòng của người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước. Người trong cuộc đã và đang phát huy truyền thống cha ông, dân tộc. Truyền thống của ý chí tình yêu tổ quốc, của đạo lý con người.

Tháng 11-98
L.K.
(125/07-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".

  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.