Người trong cuộc

16:08 09/12/2009
LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

(Ảnh: Internet)

Bài thơ có nhan đề “Nén hương lòng” phản ánh tâm trạng buồn thương, nỗi băn khoăn của anh về những đồng đội đã hy sinh, khái quát “trăm nghìn sinh mạng, muôn trạng vạn hình” đọng chiều sâu nhân văn cầu mong và ước nguyện:

“Lòng thành tưởng mộng đốt nén hương thơm
Đau đáu nguồn cơn nhớ tình đồng đội!”

Tôi không bình cũng không chữa được thơ anh. Nhưng tôi xúc động với nỗi niềm “đau đáu nguồn cơn” ở anh. Đó là tình người lính trong cuộc chiến tranh chống Mỹ - lòng chung thủy với đất nước, với đồng đội cùng vào sinh ra tử.

Anh là Phạm Ngọc Tuấn quê thôn Xuân Úc xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Vào bộ đội năm 1960, viết đơn tình nguyện bằng máu của mình xin được vào Nam chiến đấu 1963, bám trụ chiến trường Trị Thiên từ tháng chạp năm ấy cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Anh nghỉ hưu 1986, sinh sống tại Huế. Đến nay, tuổi hưu đã ngang tuổi anh ở chiến trường. Do vậy anh hiểu thấu vùng đất Trị Thiên anh hùng trong và sau chiến tranh sành sỏi không kém người gốc quê sành sỏi. Từ phía nam sông Bến Hải, đến đường 9, đồng bằng Triệu Hải, Phong Quảng Điền, Phú Lộc, đèo Hải Vân... anh đều thành thạo. Các trận đánh địch lớn nhỏ: Lao Bảo, Ba Lòng, A Chùm, Gốc Bai, Kacôva, động Tà Ư, Dốc Chè, đồi 673, A Tây, A Tây luật... (Quảng Trị) đến Khe Tre, Chúc Bao, Bạch Mã, Núi Truồi, núi Bông, núi Nghệ, Cù Mông, Nam Giang, Lương Mai, Sông Bồ, Động Thòa, Mũi Né, đèo Phước Tượng... (Thừa Thiên Huế) v.v..và v.v...

Trăm trận anh đã từng trải qua, vẫn dựng sơ đồ trong trí nhớ. Anh nói với tôi có khi anh ngồi nhắm mắt hàng giờ, hình dung lại đơn vị lúc hành quân, lúc nghỉ ngơi, những ngày gian truân thiếu đói, những trận đánh súng đạn mù trời, tiếng tăng rú, máy bay quần, những luồng sáng chằng chịt dọc ngang như chớp giật, rồi những ai còn, ai mất ở những cánh quân nào,.. Tất cả cứ diễn ra mồn một trước mắt anh. Cũng có lúc bất thần anh nhớ đồi núi thoai thoải của dãy Trường Sơn, nơi có ba cái miếu thờ, ba cây khế cổ thụ sai quả trĩu cành. Đơn vị anh hành quân qua đói lòng, cổ khô vì khát mà không ai dám hái- vì kỷ luật quân đội “Không được đụng đến cái kim sợi chỉ của dân; Phải thật sự tôn trọng phong tục tập quán, và tự do tín ngưỡng”. Bỗng anh nhớ và thương người bạn không còn.

Anh tên Nguyễn Thanh Đọc, quê Bắc Ninh, hiền từ, đẹp trai, làm nhiệm vụ nuôi quân. Chỉ vì hái sáu bắp ngô ở rẫy sát đường rừng để làm món canh cho đơn vị sau buổi hành quân nắng gắt mà phải làm bản kiểm điểm. Ngẫm ra anh thấy có cái gì cứng nhắc trong vận dụng điều luật. Nhưng ngẫm lại cũng có cái hay. Thời ấy mà lơi lỏng, sinh động một chút cũng dễ dẫn đến buông thả. Anh thích thú vấn đề này lắm. Anh cho sự thành công lớn nhất trong quân đội ta là kỷ luật nghiêm khó nơi đâu sánh kịp. Nó làm cho quân đội ta giác ngộ ngày càng cao, càng tự giác, đoàn kết, thương yêu nhau gắn bó, ý chí chiến đấu thật cừ, tình quân dân như cá với nước. Theo anh, nhờ vậy mà con người càng sinh tình, càng nhiều sáng tạo. Không ai thương yêu, đùm bọc, săn sóc, lo lắng, động viên cổ vũ nhau bằng tình đồng đội, bốn bể mà như một nhà. Ông bà, cha mẹ, vợ con, anh em, tình ruột thịt, dù thương nhau đến mấy cũng không sánh được. Đã nhiều lần tôi vểnh tai nghe anh nói về những người bộ đội, cán bộ, dân quân, công an viên, biệt động thành ở chiến trường Trị Thiên. Nào anh Thầm quê Quảng Ninh, hành quân trong đêm qua sông Kê Vạn bị chìm mà im lặng, không một tiếng kêu la để bảo đảm bí mật an toàn cho đơn vị trên đường vào trận. Nào cô Thơm công an viên xã Lộc An luôn xung phong dẫn đường cho các hoạt động phục kích địch đúng nơi, đúng hẹn. Nào liệt sĩ Phan Cảnh Kế biệt động nội thành Huế, người chỉ huy đạo quân tóc dài bắt liên lạc với các đầu mối cơ sở. Ông như một hiệp sĩ oai hùng, râu đen rậm và dài, đội nón dứa, mang áo chùng đen, thắt lưng vải đỏ, dùng đèn ba pin sáng quắc, ẩn hiện như xuất quỷ nhập thần. Mậu Thân 68, đúng giờ “G” ông là người đã mở cửa Chánh Tây cho quân ta nhập thành nội Huế.

Với anh có thể nơi đâu, thời điểm nào cũng đầy kỷ niệm thời chinh chiến. Nhân chuyện lụt bão, anh nhớ đêm mưa, kiểu mưa dầm như Huế. Đơn vị anh được lệnh đi nhận hai chục bao gạo ở phía Cầu Hai. Đấy là những ngày sau Mậu Thân gian nan, đói thiếu. Ba chục anh em vượt suối, băng rừng, đến nơi chỉ nhận được năm bao. Trên đường bị địch phục kích chết và bị thương quá nửa. Có anh em chết, mắt cứ mở trừng trừng! Bên xác bạn, anh khấn nhỏ vì đất nước, tình đồng đội, nghĩa đồng bào rồi giơ bàn tay vuốt nhẹ lên mặt, đôi mắt bạn từ từ khép lại. Sao mà lòng đau quặn thắt! Đến xem triển lãm của Bảo tàng kháng chiến Thừa Thiên- Huế anh nói với bạn bè về di tích Động So (A Lưới). Nơi ấy có mười hai hang đá lớn nhỏ. Hang nào chứa một tiểu đoàn, hang nào chứa vũ khí, đạn dược, hang nào quân khu làm bản doanh và nơi nào đã bị đá sập, lấy kín 6 chiến sĩ pháo cối đến nay vẫn chưa lấy ra được. Anh chỉ tay lên một vùng xanh trên bản đồ
Trị Thiên. Đó là thung lũng, nơi dùng làm bãi dấu xe tăng. Bên phải là Động So, bên trái Động Tà Ư.

Chính từ đây bốn chục xe tăng đã rầm rầm xuất phát vang động núi rừng, đi về Nam Đông theo đường 14 qua Na Sơn vào Đà Nẵng trong chiến dịch Mùa Xuân 1975. Nhiều người đứng quanh anh, khen anh tài nhớ, nhớ lâu và nhớ kỹ. Tôi lại nghĩ về anh có tấm lòng yêu thương da diết mảnh đất con người. Ý nghĩ ấy trong tôi chẳng phải bất chợt. Tôi biết anh, thân anh rồi ngưỡng mộ anh đâu chỉ qua những chuyện kể? Cũng chẳng phải vì anh là đại úy, tiểu đoàn trưởng về hưu, có danh hiệu dũng sĩ, được tặng nhiều huân chương huy chương, được tặng huy hiệu Bác Hồ, là thành viên trong đoàn dũng sĩ diệt Mỹ ở miền Nam được ra thăm miền Bắc, thăm Bác Hồ năm 1969. Hay anh là một trong những người hùng đã kéo cờ giải phóng lên kỳ đài Ngọ Môn Huế trong chiến thắng Mậu Thân 1968- người chiến sĩ trong đơn vị quân giải phóng thành phố Huế trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Điều cuốn hút sự ngưỡng mộ của tôi về anh là trong bối cảnh hòa bình anh vẫn giữ vững và phát huy truyền thống quân đội bằng những hành động đầy nhiệt tình và nhẫn nại. Mười hai năm nay anh đã phát hiện 574 liệt sĩ, con em của 27 tỉnh thành trên chiến trường Trị Thiên. Có tỉnh 1,2,3,4,5 người. Có tỉnh 17,20 người. Cũng có tỉnh 30 người như Hà Tây, Hà Tĩnh, 40 như Hưng Yên, Nghệ An, 50 như Hà Nội, 60 như Hải Dương, Thanh Hóa, 70 như Hải Phòng và 90 như Thái Bình. Trong số liệt sĩ ấy, anh đã trực tiếp cất bốc cho các gia đình thân nhân đem về quê ở các tỉnh miền Bắc là 50 liệt sĩ. Còn 524 liệt sĩ là ở các nghĩa trang Lộc Bổn, Lộc Điền, Xuân Lộc, Lộc An, Hương Thọ, Hương Vân, Bình Điền, Phong Sơn của các huyện Phú Lộc, Hương Thủy, Hương Trà, Phong Điền, A Lưới, Nam Đông và nghĩa trang thành phố Huế.

Anh còn thường xuyên thư từ, thăm viếng, bạn bè đồng đội. Qua họ anh xác minh thêm các liệt sĩ còn ẩn tích và cuộc sống gia đình họ. Những ai đã được chính sách ưu đãi, ai chưa? gia đình nào đã khá lên, ai còn khó khăn chật vật. Anh đã giúp được gia đình liệt sĩ Chu Văn Dần quê Bắc Thái, Hoàng Công Liên quê Phú Thọ, Hà Thiện Tế ở Nam Định, Nguyễn Công Tuấn ở Hải Phòng có đủ minh chứng làm hồ sơ chính sách liệt sĩ. Những công việc trên cuốn hút anh không hề ngưng nghỉ. Cũng có người không hiểu anh, họ nói trách: Tay ấy chẳng biết chăm lo việc nhà- gia đình thì túng thiếu, chỗ ở thì chật chội chỉ 12 thước vuông. Mà ngày này qua tháng khác đi lông bông tìm mộ liệt sĩ! Có người lại bảo: Anh ta đâu có dại khờ! Thời buổi này việc gì chẳng có giá! Việc ấy giá càng cao, biết đâu nay mai anh sẽ xây lầu, ta sao biết được!

Họ đâu có hiểu ngoài đồng lương hưu của hai vợ chồng vỏn vẹn sáu trăm nghìn, vợ anh nuôi heo, kèm theo cái tủ nhỏ đặt dọc đường bán vặt vài chai bia vài bao thuốc lá. Anh thì tranh thủ thời gian rảnh rỗi đẩy xe chở hàng thuê. Khi thì phụ việc quản lý trật tự chợ Đông Ba. Khi thì giữ vật liệu cho công trình tu bổ cầu Trường Tiền v.v.. Cái giá tìm mộ liệt sĩ của anh cao thật, cao về lương tri, đạo nghĩa, chứ đâu có giá cao của thị trường thương mại! Anh chỉ nhận những gì theo chính sách, chế độ nhà nước quy định, may lắm là đủ chi tiêu trong các cuộc đi và trà nước tiếp khách các nơi về. Nhiều gia đình thân nhân liệt sĩ biếu tặng anh tiền, anh đâu có nhận. Từng đi theo họ để tìm kiếm, viếng thăm, cất bốc, anh hiểu rõ một chuyến đi chỉ bốn người, với độ đường vài trăm cây số, tiền ăn, tàu xe cả đi về, thời gian năm ngày, tằn tiện hết mức cũng đã tốn bốn triệu. Người giàu có thì không lo. Nhưng gia đình nghèo mà sự giúp đỡ của địa phương hạn hẹp thì với họ tình thương cọng thêm vào nỗi khổ. Chồng thư của bao người tỏ lòng biết ơn anh càng sáng tỏ điều đó.

Bà Ngô Thị Hòe 74 tuổi ở tỉnh Phú Thọ viết: “Tôi đã đi nhiều nơi tìm mộ con trai liệt sĩ Nguyễn Văn Ngọ. Đến đây mới thực yên lòng được đem con về. Ở đâu tôi cũng được cơ quan và nhân dân giúp đỡ, song người tận tình và tốt như bác Tuấn thật hiếm có". Ông Nguyễn Tấn, thiếu tướng nguyên Phó tư lệnh bộ đội biên phòng quê tỉnh Thanh hóa viết thư cho cơ quan đương sự ở Huế có đoạn: “Đồng chí Tuấn đã trực tiếp bốc mộ em trai tôi về quê. Gia đình tôi chân thành cám ơn phường Thuận Thành đã có người cựu chiến binh có tâm và công lao lớn trong việc tìm kiếm mộ liệt sĩ. Đề nghị các cơ quan chức năng tạo mọi điều kiện giúp đỡ gia đình đồng chí Tuấn theo chính sách thật xứng đáng”. Những dòng thư đầy tình nghĩa ấy ngày một nhiều thêm trong tủ anh.

Anh nói với tôi, lo đủ ăn cho cả nhà, hai đứa con vào được đại học, một đứa đang cấp 3 đã “bở hơi tai” có dư ngàn nào đâu mà tích lũy. Rồi nhìn tôi, anh quắc đôi mắt tinh anh, lộ hai gò má nhô cao, vừng trán rộng và nói: Ai chẳng muốn giàu! nhưng khả năng mình mới đến vậy! Rồi như niềm tâm sự riêng anh dịu giọng: Cuộc sống rút cuộc là tình đời. Tôi cũng có thể dồn sức làm nhiều việc kiếm tiền, chưa hẳn giàu được như ai cũng có thể khá hơn. Hiềm một nỗi tâm tư tôi không sao quên nghĩa tình đồng đội, sống chết có nhau. Nhiều bà con xa xôi nghìn dặm, họ hy sinh công của đi tìm mộ thân nhân, mình sao nỡ tiếc thời gian mà quên tình đồng đội! Mình may mắn được sống, dù sao vẫn hạnh phúc hơn bao đồng đội đã chết. Anh cười, nụ cười vui hết cỡ.

Thì ra nỗi “đau đáu” về tình đồng đội dồn nén trong anh suốt thời gian về hưu, nay thành thơ là vậy. Thơ lòng của người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước. Người trong cuộc đã và đang phát huy truyền thống cha ông, dân tộc. Truyền thống của ý chí tình yêu tổ quốc, của đạo lý con người.

Tháng 11-98
L.K.
(125/07-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.

  • MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

  • VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.

  • VÕ MẠNH LẬP                Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.

  • DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.

  • NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )

  • TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.

  • ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.

  • PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

  • ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...

  • TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!

  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.