Tốt nghiệp Đại học Sư phạm ngành Ngữ văn, chị được phân công vào Nam công tác và chiến đấu. Chị làm việc tại Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam. Chính những tháng năm gian khổ và ác liệt đó đã hình thành trong chị lòng yêu quê hương, đất nước và thi ca. Chị trở thành nhà thơ và là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với hành trình thơ không bình lặng. Thơ chị tạo nên thi pháp và giọng điệu riêng, được bạn đọc trong cả nước đón nhận nồng nhiệt. Dù viết về nhiều chủ đề, đề tài, nhưng thơ chị luôn tạo nên sự tương tác bền chặt giữa hồn quê, tình quê với tình yêu đất nước rộng lớn; từ đó quy định bút pháp và chất thơ giàu thiên tính nữ thông qua việc kiến tạo nên thế giới hình tượng và ngôn từ gần gũi, thấm đẫm chất trữ tình đời tư và thế sự.
Suy nghĩ về đời và về thơ mình, Đặng Nguyệt Anh viết: “Thơ không là nghề mà là nghiệp. Đôi khi phải mài nhan sắc để được những câu thơ đến với người đọc và ở lại trong lòng họ. Tôi phải chịu ơn sâu nặng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Cảm ơn những ngày tháng ở Trường Sơn, những năm tháng ở rừng miền Đông Nam Bộ. Chính từ đó, tôi đã trưởng thành. Tôi đã uống nước sông Ninh mà lớn lên. Đã mang nợ bao nhiêu người đã ngã xuống cho tôi được sống như hôm nay. Quê hương và cuộc chiến tranh vệ quốc là hai đề tài xuyên suốt hồn tôi, xuyên suốt thơ tôi.” (Nhà văn Việt Nam hiện đại, in lần IV, Nxb. Hội Nhà văn, 2010, tr. 137).
Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống như vậy cũng đã đem lại cho chị những giá trị công bằng và vinh dự. Thơ chị càng về sau càng được dư luận trong và ngoài nước chú ý. Đặng Nguyệt Anh đã từng có thơ đăng ở các tạp chí và các báo nước ngoài, trong đó, có Tạp chí Văn học Nga và Tạp chí Văn học Mỹ. Đặc biệt là vào tháng 2/2023, tập thơ Trái tim không biết quỳ của chị được dịch giả Khánh Phương chuyển ngữ sang tiếng Anh, được Nhà xuất bản Ukiyoto (Canada) xuất bản. Sau đó, tập thơ này tiếp tục được chuyển ngữ sang tiếng Đức, Pháp, Tây Ban Nha để thành 4 tập thơ riêng biệt với 4 thứ tiếng nói trên, cũng do Ukiyoto xuất bản và được trưng bày tại Hội chợ sách quốc tế thường niên lớn nhất thế giới Frankfurt (Đức) kéo dài 5 ngày từ 18 đến 22 tháng 10 năm 2023.
Riêng 3 tập được dịch sang tiếng Đức, Pháp, Tây Ban Nha đã được trình bày tại làng sách quốc tế vào tháng 6/2023. Hiện tại, cả bốn bản thơ Trái tim không biết quỳ đang được phát hành toàn cầu trên các kênh phát hành sách của Nhà xuất bản Ukiyoto, kênh Barnes & Noble (Mỹ), Smashwords (Anh).
Sự kiện này đã được giới văn học, đặc biệt là công chúng độc giả Bắc Mỹ chú ý và có lời khen ngợi. Trong một bài viết của mình, Phạm Tuấn viết: “Nữ sĩ Việt xuất hiện trên thị trường sách quốc tế vốn không nhiều. Nữ sĩ Việt đến với độc giả thơ khu vực Bắc Mỹ càng hiếm hoi. Vì vậy, trường hợp Đặng Nguyệt Anh ra mắt với tư cách một nữ sĩ Việt tại Canada, cũng là một hoạt động giao lưu và quảng bá văn hóa đáng chú ý”. Phạm Tuấn nhận xét tiếp: “60 bài thơ trong tập thơ Trái tim không biết quỳ, phần nào giúp cho người đọc hiểu thêm về nội tâm của một nhà thơ không nhiều tham vọng, không có mưu cầu danh lợi, mà chỉ âm thầm, tận tụy gắn bó với thơ, chắt chiu từng khoảnh khắc đẹp giữa đời thường để dâng hiến cho người đọc. Không chói lọi, lung linh mà nhẹ nhàng, dẫn dắt, chinh phục độc giả”.
Còn Ban biên tập khi đọc Trái tim không biết quỳ (The heart not knowing to kneel) của Đặng Nguyệt Anh lại nhận xét: “Đó là những áng thơ giúp tôi hiểu hơn về Tổ quốc Việt Nam, về những con người chịu thương, chịu khó, về những nét bình dị nhưng vô cùng đẹp, khắc họa nên một Việt Nam yêu chuộng hoà bình…” (Những trích dẫn trên đều rút từ bài viết của Phạm Tuấn: “Nữ sĩ Việt gửi ra thế giới một trái tim không biết quỳ”, in ở chuyên mục Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt, Báo Nông nghiệp Việt Nam, số ra ngày 04/4/2023).
Vậy là Đặng Nguyệt Anh đã tự mình làm nên hồn thơ không bao giờ tĩnh vật. Thơ chị vận động và phát triển trên cái nền cuộc sống chung là quê hương và đất nước, là cuộc sống chiến đấu và lao động hòa bình; từ đó, cái tôi trữ tình giàu yêu thương và khao khát của chị hiện lên trên từng trang thơ với ngôn từ, hình tượng và giọng điệu chân tình, nghĩa ân và mê đắm.
Gắn bó thiêng liêng và sâu nặng nhất trong thơ Đặng Nguyệt Anh là hình ảnh quê hương mà con sông Ninh như là huyền sử và cổ mẫu lay động, điển hình nhất trong tâm thức nhà thơ:
Ngày đi xa
ta gửi lại nửa vầng trăng dưới đáy sông Ninh
gửi lại nửa đời con gái
gửi lại dấu chân ta thơ dại
trên bãi cói phù sa
con cáy, con còng chui vào làm tổ
(Sông Ninh)
Mỗi lần nghĩ về Sông Ninh là mỗi lần chị phát hiện thêm những thuộc tính mới mẻ về nó và chị không thôi xao động để yêu thương và ân huệ: “Ngày đi sông hãy còn trinh/ nay về hát khúc huê tình tặng sông”. Sông Ninh luôn thường trực trong nỗi nhớ, cả trong giấc mơ tâm tưởng để người thơ luôn hoài vọng và luyến lưu:
Tôi đi nam bắc tây đông
vẫn da diết nhớ dòng sông quê nghèo
Đò xưa giờ đã nhổ neo
bến xưa giờ đã bao nhiêu đổi dời
Hỡi con sông của đời tôi
chở bao kỷ niệm một thời ấu thơ”.
(Sông Ninh ơi)
Người thơ hẹn với lòng mình, bao giờ trở lại quê xưa, sẽ mang theo hương thơm của dòng sông Vàm Cỏ nhập vào dòng nước sông Ninh để nghĩa tình hai dòng sông của hai miền Nam - Bắc được hòa tan, trọn vẹn trong ước nguyện giao hòa, giao cảm:
Bao giờ trở lại
ta sẽ mang hương thơm dòng sông Vàm Cỏ
về bầu bạn với sông Ninh
ta sẽ hát câu thơ ngày nào
trả lại dòng sông nửa vầng trăng con gái
ta lang thang đi tìm dấu chân ngày thơ dại
ơi con cáy, con còng... còn nhớ ta không?
(Sông Ninh)
Phải nói là nghĩa tình và sâu nặng lắm, bảo làm sao không lây sang người đọc sự đồng cảm, bồi hồi!
Quê hương không chỉ là hình ảnh bình thường nữa mà đã trở thành hình tượng mang nhiều ý nghĩa biểu trưng thường trực trong tâm tưởng của nữ sĩ: “Xa quê đã nửa đời người/ nay về ai cũng gọi mời thân thương/ em đi hết dãy Trường Sơn/ Sài Gòn hoa lệ càng thương quê nghèo” (Làng trong tâm tưởng). Nơi ấy, hiện lên biết bao nhiêu gương mặt người thân và kỷ niệm đẹp canh cánh bên lòng: “Mỏng manh cánh hồng phận gái/ số trời bảo phải đi xa/ cha mẹ và quê hương đó/ đêm ngày canh cánh lòng ta” (Hải Hậu ngày về). Ở đó, có cả kỷ niệm đẹp đầu đời thiếu nữ, gắn với tuổi học trò gấm hương hoa mộng:
Nhớ thương sao mùa phượng đỏ quê nhà
khoảng trời đỏ
sân trường màu đỏ
cánh phượng vô tình
đâu biết chuyện buồn vui
tuổi học trò
bao kỷ niệm xa xôi
Để rồi trong dặm dài chiến đấu nơi rừng núi Trường Sơn chập chùng đồi cao lũng thấp, chị lại không nguôi nhớ về quê cũ, làng xưa: “Mẹ ơi!/ bao nhiêu nỗi nhớ thương/ gói trong đêm Trường Sơn/ giang tay trong cách trở/ muốn ôm choàng quê hương!...” (Đêm Trường Sơn). Và mong ước thường trực ấy lại hiện về trong mộng mị. Đối diện với lòng mình, nỗi riêng - chung càng có thêm nhiều suy tư, thổn thức. Nhất là hình ảnh mẹ luôn chập chùng trong những đêm nơi chiến trường vượt Trường Sơn gian khổ:
Sâu thẳm đêm Trường Sơn
bập bùng ánh lửa
con nằm không ngủ
nhớ về mẹ quê nhà
nhìn ánh lửa gần
nghĩ đến chiến trường xa
lòng rạo rực mong trời mau sáng
để ngày mai
đồng đội cùng con
lại hành quân
Đêm Trường Sơn mông mênh.
(Đêm Trường Sơn gửi mẹ)
Nỗi nhớ đan xen nỗi nhớ và chị không sao quên được kỷ niệm thời thiếu nữ nhiều đam luyến. Mong ước của chị là: “Bao giờ lại đến ngày xưa/ để cho người ấy đón đưa tôi về/ cơn mưa run rẩy mùa hè/ đan thành kỷ niệm, chở che hai người” (Bao giờ cho đến ngày xưa). Nhưng rồi, chị nhận ra niềm riêng chẳng là gì khi việc chung mọi người đang cùng nhau gánh vác, nên từ đó, chị yên lòng, vững bước cùng đồng đội ra đi để Tổ quốc được bình yên:
Em đã qua một thời bão lửa
lớn lên cùng đất nước chiến tranh
ai cũng nghe như Tổ quốc gọi tên mình: đánh Mỹ
tuổi trẻ ra đi hồn nhiên giản dị
em đã đi dọc Trường Sơn một trăm ngày đêm
mới hiểu câu ca:
chân cứng đá mềm...
(Thơ viết tuổi 45)
Vì vậy, chị càng hiểu những điều thiêng liêng mà bình dị: “Ngày ấy/ Câu ca dao mảnh quá/ Không níu được đời em/ Phận gái như cánh chuồn kim/ Lại say miền bão lửa” (Ngày ấy). Chị hiểu được phận gái thời đạn bom, trận mạc, chia ly khi liên hệ với tiếng chim từ quy gọi bạn tình da diết trong đêm: “khắc khoải từ quy níu đêm trở lại/ mòn đêm/ rã cánh từ quy”. Trong sự cách xa thương nhớ, có tiếng chim nói hộ lòng mình. Rồi chị lại khắc khoải về những điều xa xót khác: “Chiếc ba lô cũ theo anh/ buồn vui kỷ niệm chiến tranh một thời/ cũng là chuyện của đời tôi/ những năm tháng ấy đất trời đạn bom/ với bao dốc thẳm đường mòn/ đá tai mèo cứng chân son thì mềm” (Cũng là chuyện của đời tôi). Bao nhiêu đồng đội khác cũng gian khổ trong chia cách như mình, thơ chị lại nhập vai thành điệu hồn thổn thức: “Thương từ phía ấy đạn bom/ cô gái mở đường mưa có ướt không?/ chiến trường thì rộng mênh mông/ bao nhiêu người lính mưa không có nhà!” (Rừng đêm mưa). Rồi chị liên hệ đến những nữ đồng đội trắng trinh bất hạnh không biết đã yên nghỉ nơi nào trên dọc dài cuộc chiến để chị đi tìm trong vô vọng rừng xanh:
Bạch Cát ơi, em nằm đâu?
con gái da trắng, tóc nâu, môi hồng
trời thu trong mắt em trong
khi về với đất vẫn còn đồng trinh.
(Tìm em chiều nghĩa trang)
Thơ Đặng Nguyệt Anh càng về sau càng thấm đẫm cảm thức hiện sinh với bao âu lo, day dứt, dằn vặt; có lúc không khỏi hoài nghi và tự vấn về những kinh nghiệm quan hệ nhân sinh thường nhật trước cái ác và tình trạng vô đạo đức của tha nhân, nhưng rồi cuối cùng, chị lại tự dựa vào chính mình để tin yêu và hy vọng, bởi chị tin rằng cuộc đời bao giờ cũng bao dung và độ lượng. Những lúc vui buồn, chị đều dựa vào thơ và dựa vào tình yêu mà đứng dậy. Giọng điệu hát ru, vỗ về xuất hiện trong thơ Đặng Nguyệt Anh xuất phát từ trái tim giàu yêu thương và nhân hậu của chính người thơ:
Mẹ ru anh ngủ ngày xưa
Em ru anh thức nắng mưa trọn đời
Mẹ ru yên ấm biển trời
Ru anh em biết chọn lời nào đâu
Ru là thiên tính nữ vĩnh hằng của tâm hồn luôn rộng mở để chan hòa cùng con người và thiên nhiên, tạo vật: “Sông dài về đáy biển sâu/ Con chim về tổ, con tàu về ga/ Ru cùng trời đất bao la/ Hồn mê lộ - Biết lối mà tìm không”. Lời ru trong thơ Đặng Nguyệt Anh có khả năng hóa giải nỗi cô đơn và mang lại niềm vui dâng hiến:
Ru thuyền dịu sóng đêm giông
Ru anh say giấc thức ròng vì em
Lời ru mía tím lên men
Vun về sợi rối tơ chèn gỡ đâu.
Ru cùng tháng bảy mưa ngâu
Giêng hai hương bưởi hương cau ngát nồng
Ru đèn anh có thức chong
Lời ru em ngọt cho lòng anh cay?
(Ru anh thức)
Lời ru có khả năng kéo dài và lây lan thương nhớ. Khi ấy, mọi ký ức gần và ký ức xa cùng hiện về trong chập chùng, đứt nối của những giấc mơ để thỏa mãn những ước nguyền dang dở trong hữu thức và vô thức:
Anh và em lẫn vào nhau
Lẫn vào nhau tự lúc nào không hay
Như trời xanh lẫn trong mây
Như nước trong đất, như cây trong rừng
Như sông hòa biển mênh mông
Như ngàn gió lẫn vào trong đất trời
Lời ru kéo tình yêu về lại gần nhau, lẫn vào nhau trong khát khao giao hòa, nhân ái. Cái tôi trữ tình khát khao giao cảm trong thơ Đặng Nguyệt Anh luôn nồng say là thế!
Như lời ru quyện vành môi
Như bao la sóng suốt đời biển xanh
Lẫn vào nhau nữa đi anh
Cái tên riêng đã hóa thành tên chung.
(Lẫn vào nhau)
Khi ấy, cái tôi đang thao thức, đang tư duy gọi về những vần thơ chân thành và mê đắm. Phải vậy không mà trong thơ Đặng Nguyệt Anh luôn chập chùng những ký vãng ngọt ngào lẫn bi thương, chung thủy: “Ai ơi bèo dạt mây trôi/ Ai đi cuối đất cùng trời vì ai?” (Khúc hát sông Cầu). Những ký ức luôn được vực dậy sau giấc mơ tro vùi để đánh thức những bình minh nhớ thương màu cỏ biếc:
Con đường gần, con đường xa
Đi bên nhau để mặn mà yêu tin
Để rồi thao thức từng đêm
Cho trang thơ cũng say niềm khát khao
Trời khuya lạc một vì sao
Để em gửi nhớ thương vào hương đêm...
(Lặng im)
Lại có dịp nói về thơ, Đặng Nguyệt Anh thổ lộ: “Thơ là cuộc sống. Với tôi, con người cụ thể bằng xương thịt và thơ đã hòa quyện vào nhau, không thể tách rời! Cảm ơn số phận đã cho tôi là một nhà thơ. Nhà thơ, tôi có một đời sống tâm hồn phong phú. Có bạn bè ở khắp mọi nơi. Được chia sẻ, yêu thương. Tôi không định nghĩa về thơ, vì quá nhiều người đã định nghĩa. Có người cho rằng: Thơ là sự viết sai ngữ pháp. Tôi không quan tâm, chỉ muốn thơ của mình có nhiều độc giả, và chia sẻ được với họ”. Thơ chị là tiếng nói vui buồn tận cõi lòng thi sĩ và là tiếng nói tri âm là thế!
Với quan niệm như vậy nên thơ Đặng Nguyệt Anh luôn thao thức trước tình người và dòng đời thao thiết chảy. Chị luôn mong thơ mình không tĩnh vật trước những ba động của cuộc đời để thơ luôn có ích, trước hết, cho chính mình. Và sau nữa, có ích cho quanh đời. Chị nghĩ về tình duyên và phận số của những người đàn bà lặng im như cát để thấy được nỗi cô đơn trong đêm của họ vọng về theo từng giọt thời gian nhung nhớ:
Người đàn bà lặng im
tựa vào đêm
mông lung hoang tưởng
nghe chập chờn
tiếng thời gian vọng về.
Rồi cũng chính người đàn bà choáng váng đến ngơ ngác trong sự cô đơn và im lặng của bóng đêm. Chỉ có bóng đêm là thời gian mà cũng là không gian lắng đọng mà chủ thể nhận ra đến bàng hoàng, run rẩy:
Đêm bàng hoàng
Người đàn bà choáng váng
Nỗi cô đơn vực nàng dậy
Người đàn bà im lặng
tựa vào đêm.
(Người đàn bà)
Chủ đề thế sự trong thơ Đặng Nguyệt Anh về sau trong thời kỳ hậu chiến càng được nhà thơ quan tâm, nhất là sau thời Đổi mới của đất nước, khi mà mọi trạng thái nhân thế có sự xáo động trước những quan hệ phức tạp của thời xã hội tiêu dùng đang chi phối đến từng trạng thái tình cảm và hành vi đạo đức của con người. Nhà thơ mừng vui trước những lựa chọn đạo đức sáng suốt của những chủ thể hiện sinh tích cực:
Trăm nghìn lý lẽ biện minh
Xót xa thế sự nhân tình ngẩn ngơ
Trăm năm duyên kiếp hững hờ
Để cho người - vẫn bây giờ mồ côi
Trầm tư một thuở ngậm ngùi
Mừng ai vẫn sống giữa đời thanh cao.
(Tặng thuở trầm tư)
Vì vậy mà thơ Đặng Nguyệt Anh luôn thiết tha đời như chồi non, lộc biếc trước mỗi ban mai tinh khiết: “Gửi đi một chút heo may/ Để bên ấy biết bên này thu sang/ Cho em đỏ chút lá bàng/ Cho em xanh chút mơ màng trời xanh”. Cái nhìn sinh thái thiên nhiên trong thơ Đặng Nguyệt Anh mang vẻ đẹp tương hợp giữa con người và cảnh vật. Nhìn vườn vải đang mùa tu hú về lấy mật, tác giả lại liên hệ đến mẹ và em trong niềm vui sinh nở của đất trời:
vườn vải đang mùa tu hú
tươi hồng như má em tôi
thương mẹ ngày xưa vun gốc
ngọt thơm gửi lại cho đời
ơi bến sông Bầu thương mến
cho con tìm đến nơi này
sương đã giăng đầy lối cũ
mẹ về... tóc trắng như mây!
(Thượng Cốc đêm cổ tích)
Từ cảm quan sinh thái thiên nhiên, nữ sĩ đã tiến thêm một bước trong nhận thức để chiếm lĩnh môi sinh bằng cái nhìn sinh thái xã hội và sinh thái tinh thần, đạo đức để chỉ ra mối quan hệ gữa thiên nhiên, xã hội và con người trong sự tương tác, tương hỗ tích cực nhằm gửi niềm tin vào sự sáng suốt điều bình sinh thái cho hiện thực đời sống trong hiện tại và tương lai. Bài thơ Biển Vũng Tàu là kết quả của cái nhìn nhân đạo hóa đó của Đặng Nguyệt Anh. Tôi xin trích trọn vẹn bài thơ để đồng cảm với cảm quan sinh thái nhân văn của nhà thơ:
Hoa sứ trắng như miền trinh nữ
Ngào ngạt dâng hương nâng núi lên trời
Biển sẽ khóc nếu Vũng Tàu không có núi
Núi ngu ngơ ôm biển suốt đời...
Biển sẽ khóc nếu Vũng Tàu không có gió
Gió lang thang thương nhớ cánh buồm
Biển nuôi nấng rong rêu tôm cá...
Có khi nào lòng biển cô đơn?
Biển dâng hiến cho muôn đời sóng hát
Nhận riêng mình tất cả mọi niềm đau
Bởi khát vọng biển cồn cào bão tố
Tĩnh lặng rồi Bãi Trước gọi Bãi Sau
Ta kiêu hãnh được mang hồn biển
Đi phiêu du khắp bốn phương trời
Dừng chân lại một đêm thánh thiện
Chạm vào miền hoa sứ trắng rơi...
Trời lên từ phía sau lưng biển
Ai biết đêm nay gió thổi phương nào?
Ở phía ấy chân trời xa lắm
Có một người nhớ biển đến nôn nao!
(Biển Vũng Tàu)
Bài thơ dạt dào tình cảm xuất phát từ tâm thức yêu biển và yêu con người đến nồng nàn của nhà thơ. Cảnh vật và hồn người cùng nhau tương hợp.
Ngoái về kỷ niệm, cảm thức hoài vãng trong thơ Đặng Nguyệt Anh luôn đồng vọng những vui buồn, gian khổ một thời Trường Sơn diệu vợi: “Đêm Vàm Cỏ Đông/ Gió ngàn vời vợi/ Cơn sốt rừng vàng vọt thức cùng trăng/ Vẫn nghe thì thầm tiếng vọng xa xăm/ Bàn chân nhỏ đạp bằng đá núi/ Ơi Trường Sơn diệu vợi”. Dù trong hiện tại, chiến tranh đã là dĩ vãng, nhưng chị vẫn thương đến buốt lòng một thời đạn lửa và mong được như ngày ấy yêu đời, hồn nhiên, tươi trẻ: “Em ước như ngày ấy/ Hồn nhiên/ Cứ mơ hồ như cánh chuồn kim/ Bay mải miết/ Tìm chân trời bão tố” (Ngày ấy). Và có cả những run rẩy đầu đời thiếu nữ cũng hiện về trong hoài niệm gấm hương hoa mộng tuổi thơ mình: “thả mơ ước qua khung trời cửa sổ/ tim bối rối trước phong thư chưa mở” (Thơ viết tuổi 45).
Mỗi khi suy tư, chiêm nghiệm những gì được mất của chính mình và cõi người, Đặng Nguyệt Anh thường có cái nhìn lạc quan, chiêm nghiệm. Chị luôn hóa giải mọi bi ai quá vãng để được vui và an bằng tâm thế trong hiện tại. Điều còn lại là nhận và cho và dâng hiến, bởi vì chị hiểu ra rằng mình còn nhiều điều phải làm và mơ ước; đời còn nhiều bất ổn nhưng vẫn bao dung. Trong những gì đã mất, chị vẫn còn - còn tất cả để yêu tin:
Tôi còn một chút hồng hoang
thì xin em cứ địa đàng trăm năm
Tôi còn một chút xa xăm
xin em đừng khép mình trong ngục tù
Tôi còn một bến hoang vu
lênh đênh tôi kẻ lãng du giữa đời
Tôi còn một chút tôi thôi...
xin em gìn giữ luân hồi có nhau
Tím xưa dù có bạc nhàu
đường xưa dù có lỗi câu hẹn thề
Tôi còn một trái tim mê
cõi em xin được đi về ngàn năm...
(Tôi còn)
Đó là những vần thơ tự tình, tự bạch mang ý nghĩa hiện sinh lạc quan của một con người đã đi qua bao gian truân của cõi mình và trần gian để không ngừng dự cảm/ dự phóng những điều tốt đẹp trong tương lai cho chính mình và cuộc sống. Tôi tin là Đặng Nguyệt Anh đã an bằng tâm thế và tự chị đã tìm được nhân vị và niềm tin đích thực cho chính mình một cách bao dung và thanh thản bằng nghệ thuật thi ca.
*
Hành trình thơ Đặng Nguyệt Anh đã qua những chặng dài với hành trang thơ ngày càng trĩu nặng những ưu tư, trăn trở. Thơ chị là tiếng nói nặng sâu về Quê hương, Đất nước, về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam, về những cung bậc trữ tình riêng tư nhiều xúc động của chính người thơ. Với tư cách là chủ thể sáng tạo, chị đã chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm trạng của mình một cách tối đa thông qua cảm quan thi sĩ và cái nhìn nghệ thuật riêng để hình thành nên hình tượng thơ, ngôn từ thơ và cấu trúc thơ mang cá tính sáng tạo riêng, thi pháp riêng. Đặng Nguyệt Anh - một hồn thơ không tĩnh vật, luôn thiết tha với cuộc đời như tơ non và chồi biếc.
H.T.H
(TCSH56SDB/03-2025)
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.