Đặng Nguyệt Anh - một hồn thơ không tĩnh vật

15:46 18/04/2025
Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

Tốt nghiệp Đại học Sư phạm ngành Ngữ văn, chị được phân công vào Nam công tác và chiến đấu. Chị làm việc tại Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam. Chính những tháng năm gian khổ và ác liệt đó đã hình thành trong chị lòng yêu quê hương, đất nước và thi ca. Chị trở thành nhà thơ và là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với hành trình thơ không bình lặng. Thơ chị tạo nên thi pháp và giọng điệu riêng, được bạn đọc trong cả nước đón nhận nồng nhiệt. Dù viết về nhiều chủ đề, đề tài, nhưng thơ chị luôn tạo nên sự tương tác bền chặt giữa hồn quê, tình quê với tình yêu đất nước rộng lớn; từ đó quy định bút pháp và chất thơ giàu thiên tính nữ thông qua việc kiến tạo nên thế giới hình tượng và ngôn từ gần gũi, thấm đẫm chất trữ tình đời tư và thế sự.

Suy nghĩ về đời và về thơ mình, Đặng Nguyệt Anh viết: “Thơ không là nghề mà là nghiệp. Đôi khi phải mài nhan sắc để được những câu thơ đến với người đọc và ở lại trong lòng họ. Tôi phải chịu ơn sâu nặng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Cảm ơn những ngày tháng ở Trường Sơn, những năm tháng ở rừng miền Đông Nam Bộ. Chính từ đó, tôi đã trưởng thành. Tôi đã uống nước sông Ninh mà lớn lên. Đã mang nợ bao nhiêu người đã ngã xuống cho tôi được sống như hôm nay. Quê hương và cuộc chiến tranh vệ quốc là hai đề tài xuyên suốt hồn tôi, xuyên suốt thơ tôi.” (Nhà văn Việt Nam hiện đại, in lần IV, Nxb. Hội Nhà văn, 2010, tr. 137).

Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống như vậy cũng đã đem lại cho chị những giá trị công bằng và vinh dự. Thơ chị càng về sau càng được dư luận trong và ngoài nước chú ý. Đặng Nguyệt Anh đã từng có thơ đăng ở các tạp chí và các báo nước ngoài, trong đó, có Tạp chí Văn học NgaTạp chí Văn học Mỹ. Đặc biệt là vào tháng 2/2023, tập thơ Trái tim không biết quỳ của chị được dịch giả Khánh Phương chuyển ngữ sang tiếng Anh, được Nhà xuất bản Ukiyoto (Canada) xuất bản. Sau đó, tập thơ này tiếp tục được chuyển ngữ sang tiếng Đức, Pháp, Tây Ban Nha để thành 4 tập thơ riêng biệt với 4 thứ tiếng nói trên, cũng do Ukiyoto xuất bản và được trưng bày tại Hội chợ sách quốc tế thường niên lớn nhất thế giới Frankfurt (Đức) kéo dài 5 ngày từ 18 đến 22 tháng 10 năm 2023.

Riêng 3 tập được dịch sang tiếng Đức, Pháp, Tây Ban Nha đã được trình bày tại làng sách quốc tế vào tháng 6/2023. Hiện tại, cả bốn bản thơ Trái tim không biết quỳ đang được phát hành toàn cầu trên các kênh phát hành sách của Nhà xuất bản Ukiyoto, kênh Barnes & Noble (Mỹ), Smashwords (Anh).

Sự kiện này đã được giới văn học, đặc biệt là công chúng độc giả Bắc Mỹ chú ý và có lời khen ngợi. Trong một bài viết của mình, Phạm Tuấn viết: “Nữ sĩ Việt xuất hiện trên thị trường sách quốc tế vốn không nhiều. Nữ sĩ Việt đến với độc giả thơ khu vực Bắc Mỹ càng hiếm hoi. Vì vậy, trường hợp Đặng Nguyệt Anh ra mắt với tư cách một nữ sĩ Việt tại Canada, cũng là một hoạt động giao lưu và quảng bá văn hóa đáng chú ý”. Phạm Tuấn nhận xét tiếp: “60 bài thơ trong tập thơ Trái tim không biết quỳ, phần nào giúp cho người đọc hiểu thêm về nội tâm của một nhà thơ không nhiều tham vọng, không có mưu cầu danh lợi, mà chỉ âm thầm, tận tụy gắn bó với thơ, chắt chiu từng khoảnh khắc đẹp giữa đời thường để dâng hiến cho người đọc. Không chói lọi, lung linh mà nhẹ nhàng, dẫn dắt, chinh phục độc giả”.

Còn Ban biên tập khi đọc Trái tim không biết quỳ (The heart not knowing to kneel) của Đặng Nguyệt Anh lại nhận xét: “Đó là những áng thơ giúp tôi hiểu hơn về Tổ quốc Việt Nam, về những con người chịu thương, chịu khó, về những nét bình dị nhưng vô cùng đẹp, khắc họa nên một Việt Nam yêu chuộng hoà bình…” (Những trích dẫn trên đều rút từ bài viết của Phạm Tuấn: “Nữ sĩ Việt gửi ra thế giới một trái tim không biết quỳ”, in ở chuyên mục Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt, Báo Nông nghiệp Việt Nam, số ra ngày 04/4/2023).

Vậy là Đặng Nguyệt Anh đã tự mình làm nên hồn thơ không bao giờ tĩnh vật. Thơ chị vận động và phát triển trên cái nền cuộc sống chung là quê hương và đất nước, là cuộc sống chiến đấu và lao động hòa bình; từ đó, cái tôi trữ tình giàu yêu thương và khao khát của chị hiện lên trên từng trang thơ với ngôn từ, hình tượng và giọng điệu chân tình, nghĩa ân và mê đắm.

Gắn bó thiêng liêng và sâu nặng nhất trong thơ Đặng Nguyệt Anh là hình ảnh quê hương mà con sông Ninh như là huyền sử và cổ mẫu lay động, điển hình nhất trong tâm thức nhà thơ:

Ngày đi xa
ta gửi lại nửa vầng trăng dưới đáy sông Ninh
gửi lại nửa đời con gái
gửi lại dấu chân ta thơ dại
trên bãi cói phù sa
con cáy, con còng chui vào làm tổ
                                   
(Sông Ninh)

Mỗi lần nghĩ về Sông Ninh là mỗi lần chị phát hiện thêm những thuộc tính mới mẻ về nó và chị không thôi xao động để yêu thương và ân huệ: “Ngày đi sông hãy còn trinh/ nay về hát khúc huê tình tặng sông”. Sông Ninh luôn thường trực trong nỗi nhớ, cả trong giấc mơ tâm tưởng để người thơ luôn hoài vọng và luyến lưu:

Tôi đi nam bắc tây đông
vẫn da diết nhớ dòng sông quê nghèo
Đò xưa giờ đã nhổ neo
bến xưa giờ đã bao nhiêu đổi dời
Hỡi con sông của đời tôi
chở bao kỷ niệm một thời ấu thơ”.

                        (Sông Ninh ơi)

Người thơ hẹn với lòng mình, bao giờ trở lại quê xưa, sẽ mang theo hương thơm của dòng sông Vàm Cỏ nhập vào dòng nước sông Ninh để nghĩa tình hai dòng sông của hai miền Nam - Bắc được hòa tan, trọn vẹn trong ước nguyện giao hòa, giao cảm:

Bao giờ trở lại
ta sẽ mang hương thơm dòng sông Vàm Cỏ
về bầu bạn với sông Ninh
ta sẽ hát câu thơ ngày nào
trả lại dòng sông nửa vầng trăng con gái
ta lang thang đi tìm dấu chân ngày thơ dại
ơi con cáy, con còng... còn nhớ ta không?

                                    (Sông Ninh)

Phải nói là nghĩa tình và sâu nặng lắm, bảo làm sao không lây sang người đọc sự đồng cảm, bồi hồi!

Quê hương không chỉ là hình ảnh bình thường nữa mà đã trở thành hình tượng mang nhiều ý nghĩa biểu trưng thường trực trong tâm tưởng của nữ sĩ: “Xa quê đã nửa đời người/ nay về ai cũng gọi mời thân thương/ em đi hết dãy Trường Sơn/ Sài Gòn hoa lệ càng thương quê nghèo” (Làng trong tâm tưởng). Nơi ấy, hiện lên biết bao nhiêu gương mặt người thân và kỷ niệm đẹp canh cánh bên lòng: “Mỏng manh cánh hồng phận gái/ số trời bảo phải đi xa/ cha mẹ và quê hương đó/ đêm ngày canh cánh lòng ta” (Hải Hậu ngày về). Ở đó, có cả kỷ niệm đẹp đầu đời thiếu nữ, gắn với tuổi học trò gấm hương hoa mộng:

Nhớ thương sao mùa phượng đỏ quê nhà
khoảng trời đỏ
sân trường màu đỏ
cánh phượng vô tình
đâu biết chuyện buồn vui
tuổi học trò
bao kỷ niệm xa xôi

Để rồi trong dặm dài chiến đấu nơi rừng núi Trường Sơn chập chùng đồi cao lũng thấp, chị lại không nguôi nhớ về quê cũ, làng xưa: “Mẹ ơi!/ bao nhiêu nỗi nhớ thương/ gói trong đêm Trường Sơn/ giang tay trong cách trở/ muốn ôm choàng quê hương!...” (Đêm Trường Sơn). Và mong ước thường trực ấy lại hiện về trong mộng mị. Đối diện với lòng mình, nỗi riêng - chung càng có thêm nhiều suy tư, thổn thức. Nhất là hình ảnh mẹ luôn chập chùng trong những đêm nơi chiến trường vượt Trường Sơn gian khổ:

Sâu thẳm đêm Trường Sơn
bập bùng ánh lửa
con nằm không ngủ
nhớ về mẹ quê nhà
nhìn ánh lửa gần
nghĩ đến chiến trường xa
lòng rạo rực mong trời mau sáng
để ngày mai
đồng đội cùng con
lại hành quân
Đêm Trường Sơn mông mênh
.
      (Đêm Trường Sơn gửi mẹ)

Nỗi nhớ đan xen nỗi nhớ và chị không sao quên được kỷ niệm thời thiếu nữ nhiều đam luyến. Mong ước của chị là: “Bao giờ lại đến ngày xưa/ để cho người ấy đón đưa tôi về/ cơn mưa run rẩy mùa hè/ đan thành kỷ niệm, chở che hai người” (Bao giờ cho đến ngày xưa). Nhưng rồi, chị nhận ra niềm riêng chẳng là gì khi việc chung mọi người đang cùng nhau gánh vác, nên từ đó, chị yên lòng, vững bước cùng đồng đội ra đi để Tổ quốc được bình yên:

Em đã qua một thời bão lửa
lớn lên cùng đất nước chiến tranh
ai cũng nghe như Tổ quốc gọi tên mình: đánh Mỹ
tuổi trẻ ra đi hồn nhiên giản dị
em đã đi dọc Trường Sơn một trăm ngày đêm
mới hiểu câu ca:
chân cứng đá mềm...

                     (Thơ viết tuổi 45)

Vì vậy, chị càng hiểu những điều thiêng liêng mà bình dị: “Ngày ấy/ Câu ca dao mảnh quá/ Không níu được đời em/ Phận gái như cánh chuồn kim/ Lại say miền bão lửa” (Ngày ấy). Chị hiểu được phận gái thời đạn bom, trận mạc, chia ly khi liên hệ với tiếng chim từ quy gọi bạn tình da diết trong đêm: “khắc khoải từ quy níu đêm trở lại/ mòn đêm/ rã cánh từ quy”. Trong sự cách xa thương nhớ, có tiếng chim nói hộ lòng mình. Rồi chị lại khắc khoải về những điều xa xót khác: “Chiếc ba lô cũ theo anh/ buồn vui kỷ niệm chiến tranh một thời/ cũng là chuyện của đời tôi/ những năm tháng ấy đất trời đạn bom/ với bao dốc thẳm đường mòn/ đá tai mèo cứng chân son thì mềm” (Cũng là chuyện của đời tôi). Bao nhiêu đồng đội khác cũng gian khổ trong chia cách như mình, thơ chị lại nhập vai thành điệu hồn thổn thức: “Thương từ phía ấy đạn bom/ cô gái mở đường mưa có ướt không?/ chiến trường thì rộng mênh mông/ bao nhiêu người lính mưa không có nhà!” (Rừng đêm mưa). Rồi chị liên hệ đến những nữ đồng đội trắng trinh bất hạnh không biết đã yên nghỉ nơi nào trên dọc dài cuộc chiến để chị đi tìm trong vô vọng rừng xanh:

Bạch Cát ơi, em nằm đâu?
con gái da trắng, tóc nâu, môi hồng
trời thu trong mắt em trong
khi về với đất vẫn còn đồng trinh.

       (Tìm em chiều nghĩa trang)

Thơ Đặng Nguyệt Anh càng về sau càng thấm đẫm cảm thức hiện sinh với bao âu lo, day dứt, dằn vặt; có lúc không khỏi hoài nghi và tự vấn về những kinh nghiệm quan hệ nhân sinh thường nhật trước cái ác và tình trạng vô đạo đức của tha nhân, nhưng rồi cuối cùng, chị lại tự dựa vào chính mình để tin yêu và hy vọng, bởi chị tin rằng cuộc đời bao giờ cũng bao dung và độ lượng. Những lúc vui buồn, chị đều dựa vào thơ và dựa vào tình yêu mà đứng dậy. Giọng điệu hát ru, vỗ về xuất hiện trong thơ Đặng Nguyệt Anh xuất phát từ trái tim giàu yêu thương và nhân hậu của chính người thơ:

Mẹ ru anh ngủ ngày xưa
Em ru anh thức nắng mưa trọn đời
Mẹ ru yên ấm biển trời
Ru anh em biết chọn lời nào đâu

Ru là thiên tính nữ vĩnh hằng của tâm hồn luôn rộng mở để chan hòa cùng con người và thiên nhiên, tạo vật: “Sông dài về đáy biển sâu/ Con chim về tổ, con tàu về ga/ Ru cùng trời đất bao la/ Hồn mê lộ - Biết lối mà tìm không”. Lời ru trong thơ Đặng Nguyệt Anh có khả năng hóa giải nỗi cô đơn và mang lại niềm vui dâng hiến:

Ru thuyền dịu sóng đêm giông
Ru anh say giấc thức ròng vì em
Lời ru mía tím lên men
Vun về sợi rối tơ chèn gỡ đâu.

Ru cùng tháng bảy mưa ngâu
Giêng hai hương bưởi hương cau ngát nồng
Ru đèn anh có thức chong
Lời ru em ngọt cho lòng anh cay?

                (Ru anh thức)

Lời ru có khả năng kéo dài và lây lan thương nhớ. Khi ấy, mọi ký ức gần và ký ức xa cùng hiện về trong chập chùng, đứt nối của những giấc mơ để thỏa mãn những ước nguyền dang dở trong hữu thức và vô thức:

Anh và em lẫn vào nhau
Lẫn vào nhau tự lúc nào không hay
Như trời xanh lẫn trong mây
Như nước trong đất, như cây trong rừng
Như sông hòa biển mênh mông
Như ngàn gió lẫn vào trong đất trời

Lời ru kéo tình yêu về lại gần nhau, lẫn vào nhau trong khát khao giao hòa, nhân ái. Cái tôi trữ tình khát khao giao cảm trong thơ Đặng Nguyệt Anh luôn nồng say là thế!

Như lời ru quyện vành môi
Như bao la sóng suốt đời biển xanh

Lẫn vào nhau nữa đi anh
Cái tên riêng đã hóa thành tên chung.

                                    (Lẫn vào nhau)

Khi ấy, cái tôi đang thao thức, đang tư duy gọi về những vần thơ chân thành và mê đắm. Phải vậy không mà trong thơ Đặng Nguyệt Anh luôn chập chùng những ký vãng ngọt ngào lẫn bi thương, chung thủy: “Ai ơi bèo dạt mây trôi/ Ai đi cuối đất cùng trời vì ai?” (Khúc hát sông Cầu). Những ký ức luôn được vực dậy sau giấc mơ tro vùi để đánh thức những bình minh nhớ thương màu cỏ biếc:

Con đường gần, con đường xa
Đi bên nhau để mặn mà yêu tin
Để rồi thao thức từng đêm
Cho trang thơ cũng say niềm khát khao
Trời khuya lạc một vì sao
Để em gửi nhớ thương vào hương đêm...

                                         (Lặng im)

Lại có dịp nói về thơ, Đặng Nguyệt Anh thổ lộ: “Thơ là cuộc sống. Với tôi, con người cụ thể bằng xương thịt và thơ đã hòa quyện vào nhau, không thể tách rời! Cảm ơn số phận đã cho tôi là một nhà thơ. Nhà thơ, tôi có một đời sống tâm hồn phong phú. Có bạn bè ở khắp mọi nơi. Được chia sẻ, yêu thương. Tôi không định nghĩa về thơ, vì quá nhiều người đã định nghĩa. Có người cho rằng: Thơ là sự viết sai ngữ pháp. Tôi không quan tâm, chỉ muốn thơ của mình có nhiều độc giả, và chia sẻ được với họ”. Thơ chị là tiếng nói vui buồn tận cõi lòng thi sĩ và là tiếng nói tri âm là thế!

Với quan niệm như vậy nên thơ Đặng Nguyệt Anh luôn thao thức trước tình người và dòng đời thao thiết chảy. Chị luôn mong thơ mình không tĩnh vật trước những ba động của cuộc đời để thơ luôn có ích, trước hết, cho chính mình. Và sau nữa, có ích cho quanh đời. Chị nghĩ về tình duyên và phận số của những người đàn bà lặng im như cát để thấy được nỗi cô đơn trong đêm của họ vọng về theo từng giọt thời gian nhung nhớ:

Người đàn bà lặng im
tựa vào đêm
mông lung hoang tưởng
nghe chập chờn
tiếng thời gian vọng về.

Rồi cũng chính người đàn bà choáng váng đến ngơ ngác trong sự cô đơn và im lặng của bóng đêm. Chỉ có bóng đêm là thời gian mà cũng là không gian lắng đọng mà chủ thể nhận ra đến bàng hoàng, run rẩy:

Đêm bàng hoàng
Người đàn bà choáng váng
Nỗi cô đơn vực nàng dậy
Người đàn bà im lặng
tựa vào đêm.

    (Người đàn bà)

Chủ đề thế sự trong thơ Đặng Nguyệt Anh về sau trong thời kỳ hậu chiến càng được nhà thơ quan tâm, nhất là sau thời Đổi mới của đất nước, khi mà mọi trạng thái nhân thế có sự xáo động trước những quan hệ phức tạp của thời xã hội tiêu dùng đang chi phối đến từng trạng thái tình cảm và hành vi đạo đức của con người. Nhà thơ mừng vui trước những lựa chọn đạo đức sáng suốt của những chủ thể hiện sinh tích cực:

Trăm nghìn lý lẽ biện minh
Xót xa thế sự nhân tình ngẩn ngơ
Trăm năm duyên kiếp hững hờ
Để cho người - vẫn bây giờ mồ côi

Trầm tư một thuở ngậm ngùi
Mừng ai vẫn sống giữa đời thanh cao.

                          (Tặng thuở trầm tư)

Vì vậy mà thơ Đặng Nguyệt Anh luôn thiết tha đời như chồi non, lộc biếc trước mỗi ban mai tinh khiết: “Gửi đi một chút heo may/ Để bên ấy biết bên này thu sang/ Cho em đỏ chút lá bàng/ Cho em xanh chút mơ màng trời xanh”. Cái nhìn sinh thái thiên nhiên trong thơ Đặng Nguyệt Anh mang vẻ đẹp tương hợp giữa con người và cảnh vật. Nhìn vườn vải đang mùa tu hú về lấy mật, tác giả lại liên hệ đến mẹ và em trong niềm vui sinh nở của đất trời:

vườn vải đang mùa tu hú
tươi hồng như má em tôi
thương mẹ ngày xưa vun gốc
ngọt thơm gửi lại cho đời

ơi bến sông Bầu thương mến
cho con tìm đến nơi này
sương đã giăng đầy lối cũ
mẹ về... tóc trắng như mây!

               (Thượng Cốc đêm cổ tích)

Từ cảm quan sinh thái thiên nhiên, nữ sĩ đã tiến thêm một bước trong nhận thức để chiếm lĩnh môi sinh bằng cái nhìn sinh thái xã hộisinh thái tinh thần, đạo đức để chỉ ra mối quan hệ gữa thiên nhiên, xã hội và con người trong sự tương tác, tương hỗ tích cực nhằm gửi niềm tin vào sự sáng suốt điều bình sinh thái cho hiện thực đời sống trong hiện tại và tương lai. Bài thơ Biển Vũng Tàu là kết quả của cái nhìn nhân đạo hóa đó của Đặng Nguyệt Anh. Tôi xin trích trọn vẹn bài thơ để đồng cảm với cảm quan sinh thái nhân văn của nhà thơ:

Hoa sứ trắng như miền trinh nữ
Ngào ngạt dâng hương nâng núi lên trời
Biển sẽ khóc nếu Vũng Tàu không có núi
Núi ngu ngơ ôm biển suốt đời...

Biển sẽ khóc nếu Vũng Tàu không có gió
Gió lang thang thương nhớ cánh buồm

Biển nuôi nấng rong rêu tôm cá...
Có khi nào lòng biển cô đơn?

Biển dâng hiến cho muôn đời sóng hát
Nhận riêng mình tất cả mọi niềm đau
Bởi khát vọng biển cồn cào bão tố
Tĩnh lặng rồi Bãi Trước gọi Bãi Sau

Ta kiêu hãnh được mang hồn biển
Đi phiêu du khắp bốn phương trời
Dừng chân lại một đêm thánh thiện
Chạm vào miền hoa sứ trắng rơi...

Trời lên từ phía sau lưng biển
Ai biết đêm nay gió thổi phương nào?
Ở phía ấy chân trời xa lắm
Có một người nhớ biển đến nôn nao!

                          (Biển Vũng Tàu)

Bài thơ dạt dào tình cảm xuất phát từ tâm thức yêu biển và yêu con người đến nồng nàn của nhà thơ. Cảnh vật và hồn người cùng nhau tương hợp.

Ngoái về kỷ niệm, cảm thức hoài vãng trong thơ Đặng Nguyệt Anh luôn đồng vọng những vui buồn, gian khổ một thời Trường Sơn diệu vợi: “Đêm Vàm Cỏ Đông/ Gió ngàn vời vợi/ Cơn sốt rừng vàng vọt thức cùng trăng/ Vẫn nghe thì thầm tiếng vọng xa xăm/ Bàn chân nhỏ đạp bằng đá núi/ Ơi Trường Sơn diệu vợi”. Dù trong hiện tại, chiến tranh đã là dĩ vãng, nhưng chị vẫn thương đến buốt lòng một thời đạn lửa và mong được như ngày ấy yêu đời, hồn nhiên, tươi trẻ: “Em ước như ngày ấy/ Hồn nhiên/ Cứ mơ hồ như cánh chuồn kim/ Bay mải miết/ Tìm chân trời bão tố” (Ngày ấy). Và có cả những run rẩy đầu đời thiếu nữ cũng hiện về trong hoài niệm gấm hương hoa mộng tuổi thơ mình: “thả mơ ước qua khung trời cửa sổ/ tim bối rối trước phong thư chưa mở” (Thơ viết tuổi 45).

Mỗi khi suy tư, chiêm nghiệm những gì được mất của chính mình và cõi người, Đặng Nguyệt Anh thường có cái nhìn lạc quan, chiêm nghiệm. Chị luôn hóa giải mọi bi ai quá vãng để được vui và an bằng tâm thế trong hiện tại. Điều còn lại là nhận và cho và dâng hiến, bởi vì chị hiểu ra rằng mình còn nhiều điều phải làm và mơ ước; đời còn nhiều bất ổn nhưng vẫn bao dung. Trong những gì đã mất, chị vẫn còn - còn tất cả để yêu tin:

Tôi còn một chút hồng hoang
thì xin em cứ địa đàng trăm năm

Tôi còn một chút xa xăm
xin em đừng khép mình trong ngục tù

Tôi còn một bến hoang vu
lênh đênh tôi kẻ lãng du giữa đời

Tôi còn một chút tôi thôi...
xin em gìn giữ luân hồi có nhau

Tím xưa dù có bạc nhàu
đường xưa dù có lỗi câu hẹn thề

Tôi còn một trái tim mê
cõi em xin được đi về ngàn năm...

                 (Tôi còn)

Đó là những vần thơ tự tình, tự bạch mang ý nghĩa hiện sinh lạc quan của một con người đã đi qua bao gian truân của cõi mình và trần gian để không ngừng dự cảm/ dự phóng những điều tốt đẹp trong tương lai cho chính mình và cuộc sống. Tôi tin là Đặng Nguyệt Anh đã an bằng tâm thế và tự chị đã tìm được nhân vị và niềm tin đích thực cho chính mình một cách bao dung và thanh thản bằng nghệ thuật thi ca.

*

Hành trình thơ Đặng Nguyệt Anh đã qua những chặng dài với hành trang thơ ngày càng trĩu nặng những ưu tư, trăn trở. Thơ chị là tiếng nói nặng sâu về Quê hương, Đất nước, về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam, về những cung bậc trữ tình riêng tư nhiều xúc động của chính người thơ. Với tư cách là chủ thể sáng tạo, chị đã chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm trạng của mình một cách tối đa thông qua cảm quan thi sĩ và cái nhìn nghệ thuật riêng để hình thành nên hình tượng thơ, ngôn từ thơ và cấu trúc thơ mang cá tính sáng tạo riêng, thi pháp riêng. Đặng Nguyệt Anh - một hồn thơ không tĩnh vật, luôn thiết tha với cuộc đời như tơ non và chồi biếc.

H.T.H
(TCSH56SDB/03-2025)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!